Tìm Hiểu Về Niệm Phật Đạt Bất Niệm Tự Niệm Bảo Đảm Vãng Sanh
I. VẤN ĐÁP
1. Hỏi:
Niệm Phật và tu các công hạnh có cần hồi hướng không?
- Đáp: Niệm Phật A Di Đà và tu tập hai hạnh chánh và phụ thì không
cần phải hồi hướng riêng biệt. Còn tu tập tạp hạnh cần phải hồi hướng
mới thành nghiệp vãng sanh. (Xin đọc phần 5, mục 3, Chuyên tu chánh
hạnh).
2. Hỏi:
Tu tịnh nghiệp có cần diệt tham, sân, si không? Nếu cần thì làm sao?
- Đáp: Tham, sân, si (tà kiến) là tam độc cần phải diệt trừ. Đối với
hành giả Tịnh Độ chỉ cần duy nhất một câu A Di Đà Phật, vạn đức Hồng
Danh nầy có công năng diệt tội, sanh phước, tăng trưởng thiện căn và
chuyển tám thức thành bốn (4) trí, thành Phật còn có dư. Khi niệm sân
vừa móng khởi hay đã khởi hiện hành (đã nổi cơn sân) chỉ cần nhiếp tâm
niệm Phật là xong. Vì tâm một lúc không thể làm hai việc, niệm Phật thì
niệm sân tự diệt. Bởi vậy Cổ đức dạy: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác
chậm”.
3. Hỏi:
Người chuyên tu tịnh nghiệp có cần tụng kinh sám hối như Lương Hoàng Sám và Thủy Sám không?
- Đáp: Đối với hành giả chuyên tu tịnh nghiệp tụng những kinh sám hối, ấy không phải là chánh hạnh, mà là
tạp hạnh.
Vả lại, Quán Kinh nói: “Niệm một câu A Di Đà Phật, diệt được trọng
tội sanh tử tám mươi ức kiếp”, vậy là đã sám hối rồi, dành thì giờ tụng
kinh sám hối để niệm Phật có tốt hơn không?
4. Hỏi:
Người tu tịnh nghiệp tụng kinh A Di Đà và các kinh Đại thừa khác được không?
- Đáp: Nói chung tụng kinh Phật, trì các chú ngữ là quý rồi, xét riêng hành giả chuyên tu tịnh nghiệp thì:
- Tụng kinh A Di Đà là chánh hạnh mà nghiệp
phụ. Niệm Phật A Di Đà là chánh hạnh mà nghiệp
chánh.
- Còn tụng các kinh khác, dù là kinh Đại thừa cũng là
tạp hạnh.
Vả lại, danh hiệu A Di Đà Phật là vua các chú (Tuyết Hư Lão Nhân Tịnh
Độ Tuyển Tập), vậy niệm A Di Đà Phật là cao tột, thù thắng hơn trì tụng
bất cứ chú ngữ nào khác (hãy đọc Phần 4, mục 4 Công đức niệm Phật)
5. Hỏi:
Người tu tịnh nghiệp có bắt buộc phải thọ Tam qui, ngũ giới không?
- Đáp: Không bắt buộc, nhưng nếu đủ điều kiện nên thọ.
Luật dạy:
- Quy y Phật khỏi đọa Địa Ngục.
- Quy y Pháp khỏi đọa Ngạ Quỷ.
- Quy y Tăng khỏi đọa Bàng Sanh (súc sanh).
Vậy thì thọ Tam qui sẽ không bị đọa ba đường ác. Nếu thọ thêm Ngủ
giới, giữ gìn trọn vẹn có vô lượng phước. Đây là thắng duyên giúp hành
giả dể tiến tu, sớm thành tựu Tịnh nghiệp.
6. Hỏi:
Người tu tịnh nghiệp có bắt buộc phải ăn chay trường không?
- Đáp: Không bắt buộc nhưng hành giả Tịnh Độ quyết tâm vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc, thành Phật độ chúng sanh mà còn ăn thịt chúng sanh là
thiếu tâm từ bi. Tâm này không tương ưng với tâm Phật nên khó vãng sanh
phẩm vị cao. Tổ thứ tám Liên Trì Đại Sư dạy: “Ác lớn nhất là sát sanh”.
Ăn chay là ngưng sát sanh, ngừng được nghiệp sát. Vậy ăn chay được càng
nhiều ngày càng tốt, trường chay là quý nhất. Lại nữa, Bát Tổ Liên Trì
cũng dạy: “Trong các hạnh thiện, phóng sanh là bậc nhất”. Vì sao? Vì
chúng sanh tham sống, sợ chết. Phóng sanh là cứu mạng sống chúng sanh,
là mình tự tu Tứ Vô Lượng Tâm (Từ, Bi, Hỷ, Xã), tự tu lục độ (bố thí
tài, bố thí pháp, bố thí vô úy) và tự sám hối (chuộc tội sát sanh trước
đây), phước đức hiện đời là không bịnh hoạn, sống lâu, nếu hồi hướng
vãng sanh Cực Lạc thì đã chuyển phước đức thành công đức. Công ít mà
phước nhiều, nhân nhỏ mà quả to. Không cần phải chờ ngày lễ lớn phóng
sanh chim, cá mà hằng ngày nên phóng sanh, kiến, dán, ruồi, muỗi v.v…
khi chúng vào nhà cũng tốt lắm rồi.
7. Hỏi:
Niệm Nam Mô A Di Đà Phật (sáu chữ) và niệm A Di Đà Phật (bốn chữ) cách nào tốt hơn?
- Đáp: Xét nghĩa
- Danh hiệu là A Di Đà Phật
- Nam mô là quy mạng, là quay về nương tựa.
-
Niệm Nam Mô A Di Đà Phật (sáu chữ) là nói quay về nương tựa Phật A Di Đà, tỏ lòng thành kính dễ cảm ứng hơn.
- Niệm
A Di Đà Phật (bốn chữ), ngắn gọn dễ nhập tâm hơn. Còn việc thành kính là do ở tâm.
Liên Trì Đại sư nói: “Ngài dạy đại chúng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, còn Ngài thì niệm A Di Đà Phật”.
8. Hỏi:
Phản văn, văn tự tánh là sao?
- Đáp: Là quay cái nghe lại, nghe tự tánh mình niệm. Người đạt Bất
Niệm Tự Niệm, nghe tự tánh mình niệm Phật bằng tánh nghe mới đúng nghĩa
phản văn, văn tự tánh.
9. Hỏi:
Nhập tâm và Bất Niệm Tự Niệm có khác nhau không? Nếu có, khác chỗ nào?
- Đáp: Khác nhau, khác ở chỗ cạn, sâu.
Nhập tâm, hành giả chỉ nghe tiếng niệm Phật của tự tánh mình trong
thời gian ngắn nào đó (còn gián đọan, chưa nghe được toàn thời gian lúc
thức, còn non cạn) tạm gọi là bước đầu của Bất Niệm Tự Niệm.
10. Hỏi:
Như Thầy nói khi trợ niệm mà thần thức của bịnh nhân bị
điên đảo, lãnh hội không nổi, không niệm Phật theo, hoặc ý thức bệnh
nhân ngưng hoạt động trước giờ lâm chung, hai trường hợp này sẽ mất phần
vãng sanh, vậy thì thân nhân phải làm sao đây?
- Đáp: Có hai giải pháp
Giải pháp 1:
- Trưởng ban hộ niệm phải liên hệ với thân nhân của bệnh nhân tìm
hiểu nguyên nhân tệ trạng này, do ác nghiệp gì, hay bệnh nhân còn bận
bịu, dính líu, thắc mắc, uẩn khúc điều gì? Từ đây khéo léo khai thị giải
tỏa, mở gút cho bệnh nhân.
- Toàn ban hộ niệm cùng thân nhân của bệnh nhân thay mặt bệnh nhân thành khẩn bái sám nghiệp chướng.
Khi nhận thấy hai việc trên mang lại hiệu quả tốt, nghĩa là tệ trạng
trên được cải tiến khả quan, thì xúc tiến hộ niệm như thường lệ.
Nếu giải pháp một không thành công, bệnh nhân ra đi trong tình trạng hôn mê, thì chỉ còn cách áp dụng giải pháp 2.
Giải pháp 2:
a. Nhờ quý Thầy chân tu giới hạnh thanh tịnh, thành khẩn cầu siêu và khai thị hương linh.
b. Thân nhân làm Phật sự như ăn chay, niệm Phật A Di Đà, phóng sanh,
bố thí, cúng dường Tam Bảo, ấn tống kinh sách, Pháp thí băng dĩa, thuyết
giảng giáo lý Phật v.v… Thành khẩn hồi hướng cho hương linh nầy siêu
sanh Cực Lạc.
11. Hỏi:
Có cần phải có nhiều Thầy không?
- Đáp: Cần nội dung hơn hình thức, chất lượng hơn số lượng, vì các lẽ sau:
- Vị thầy chân tu, giới hạnh thanh tịnh, mà thành khẩn nguyện cầu,
mới được chư Phật, chư Bồ Tát cảm ứng, cộng thêm lòng nguyện cầu chân
thành thiết tha của thân nhân.
- Thần thức (hương linh nhờ cởi bỏ thân ngũ ấm) nên rất sáng suốt,
đối với vị thầy phạm trai phá giới phàm phu chúng ta không biết nhưng họ
biết hết. Khi họ biết rồi, đâu có kính nể nghe theo lời khai thị, mặc
khác họ oán ghét, khởi niệm sân hận, mà sân hận là nhân ba đường ác, bị
phản tác dụng (không thăng mà bị đọa) rất nguy hiểm cần chú ý.
Vậy thì:
- Ba thầy mà có một thầy không thanh tịnh thì đâu tốt bằng chỉ có một thầy thanh tịnh.
- Ba thầy mà đều là thầy thanh tịnh thì dĩ nhiên là tốt hơn một thầy.
12. Hỏi:
Trợ niệm cách nào để có kết quả tốt.
- Đáp: Ban trợ niệm không nên cứng ngắt theo sách vở mà phải khéo léo
uyển chuyển niệm Phật và khai thị sao cho thích hợp với tâm lý, ước
muốn, nguyện vọng của bệnh nhân hay hương linh.
Về niệm Phật, niệm bốn chữ hay sáu chữ, giọng nào (bình thường hay
Hải Triều Âm…) nên niệm vừa phải tránh quá nhanh hay quá chậm. Nhất là
người hấp hối phải niệm rành rẽ, rõ ràng và chậm rãi để bịnh nhân có khả
năng tiếp nhận mà niệm theo. Trường hợp này, không nên đọc văn hồi
hướng (sau phần niệm Phật) vì tâm thần bịnh nhân lúc này quá yếu, không
tiếp thu được lời văn dài dòng khó hiểu, mà chỉ nên dành thì giờ này
liên tục niệm thánh hiệu Phật A Di Đà.
Về khai thị, vị thầy được đương nhơn kính trọng hoặc người được đương
nhơn thương yêu nhất (như vợ, chồng, cha, mẹ, con cháu v.v…). Khai thị
đúng ước muốn, nguyện vọng chánh đáng của người bịnh thì kết quả sẽ tốt
nhất. Ví dụ, ông chồng quá yêu mến, quyến luyến bà vợ thì bà vợ cần khai
thị ngắn gọn như sau (mà kết quả tối đa như ý): “Anh ráng niệm Phật
theo em, để rồi anh với em đồng vãng sanh Cực Lạc thành Phật cứu độ cha
mẹ cùng các con của mình, nhen anh”.
Xong rồi là niệm Phật, năm, mười, hai mươi câu, rồi lặp lại lời khai
thị trên. Làm nhiều lần như thế, cho đến hơi thởi cuối cùng. Sau giờ lâm
chung, trước bàn thờ hương linh cũng phải khai thị như vậy, rất tốt.
Ngược lại, đối với người (dù tại gia hay xuất gia), bịnh nhân không
ưa hay chán ghét, oán hận thì tuyệt đối không cho gặp mặt. Vì gặp mặt
bịnh nhân sanh phiền não, khởi niệm sân hận là nhân của ba đường ác, rất
nguy hiểm.
Về lời văn khai thị, văn phải ngắn gọn, lời phải rành rẽ, rõ ràng,
điều hoà, truyền cảm, ý phải đáp ứng nguyện vọng chánh đáng của bịnh
nhân.
13. Hỏi:
Ai là người khai thị hữu hiệu nhất?
- Đáp: Theo thứ tự ưu tiên sau: quý Thầy ngộ đạo (tâm thanh tịnh).
Người niệm Phật đạt niệm lực được tương tục (Bất Niệm Tự Niệm sâu).
Người được yêu quý, kính trọng. Người có tín tâm sâu, thành khẩn khai
thị đúng pháp Điển hình, hiện nay ở Việt Nam có một vị cư sĩ chuyên tu
Tịnh Độ đạt Bất Niệm Tự Niệm sâu, là trưởng Ban Hộ Niệm. Ông đã hộ niệm
rất nhiều nơi (kể cả các tỉnh xa) đều có kết quả tốt như ý (có triệu
chứng được vãng sanh Cực Lạc).
14. Hỏi:
Nhiếp sáu căn là sao?
- Đáp: Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm nối tiếp,
đắc Tam Ma Địa bậc nhất”. Sáu căn là gì? Là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý. Tai sao phải nhiếp? Sau đây là lý do.
Ý nghĩa.
Người xưa dạy: “Sáu căn là sáu tên giặc (lục tặc) cũng là cửa sổ mở
sáu phép thần thông” hoặc “sáu căn không dính mắc sáu trần là giải
thoát”.
Mắt thấy sắc đuổi theo, chấp chặt nên khổ đau. Tai nghe tiếng đuổi
theo, chấp chặt nên khổ đau. Mũi, lưỡi, thân, ý cũng vậy. Muốn hết khổ
đau, tâm được an định thì sáu căn phải được thu nhiếp (không chạy theo
sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Tịnh niệm là niệm thanh
tịnh. Thanh tịnh ở đây là không hoài nghi, ngoài Thánh Hiệu A Di Đà,
không xem tạp thánh hiệu nào khác, không tham sân si v.v…
Tam Ma Địa là chánh định, đối với Tịnh Độ Tông là Nhất Tâm Bất Loạn.
Thực hành: từ cạn đến sâu.
- Cấp I: nhiếp sáu căn là sáu căn vẫn tiếp xúc và hay biết mọi sự mọi
việc nhưng không dính mắc, chấp chặt, đuổi theo sáu trần. Cụ thể, mắt
nhìn tượng Phật để nhiếp nhãn căn vào Phật. Tai nghe tiếng niệm Phật để
nhiếp nhĩ căn vào Thánh Hiệu Phật. Mũi ngửi mùi hương cúng Phật để nhiếp
tỷ căn và cảnh giới Phật. Lưỡi niệm Phật để nhiếp thiệt căn và Thánh
Hiệu A Di Đà. Thân ngồi nghiêm trang để nhiếp thân căn vào cảnh giới
Phật. Ý nhớ nghĩ ghi nhận tâm thanh của Thánh Hiệu.
- Cấp II: Ý trì là niệm Phật bằng ý (xem phần 4, Cách trì danh). Niệm
bằng ý vẫn có tiếng. Bây giờ lắng lòng nghe tiếng Phật hiệu, gọi là
“Phản văn, văn Phật hiệu”. Nghe không phải là nghe bằng lỗ tai (nhĩ căn)
mà nghe bằng tánh nghe (căn tánh, chơn tâm, cũng gọi là chơn như, còn
gọi là bổn tánh).
- Cấp III: Tập như trên lâu ngày chày tháng thành thục sẽ nhiếp (đóng) trọn vẹn nhĩ căn.
Lục căn dung thông (liên quan) lẫn nhau. Chỉ cần nhiếp thành tựu một
căn, thì năm căn còn lại cũng thành tựu. Như Cổ đức dạy: “Nhứt tu, nhứt
thiết tu”, nghĩa là thành tựu một là thành tựu tất cả. Đạt đến trình độ
này mới đúng nghĩa nhiếp trọn vẹn sáu căn. Khi nhiếp trọn vẹn sáu căn và
niệm Phật không gián đoạn, là đạt Nhất Tâm Bất Loạn. Ban đầu là Sự Nhất
Tâm Bất Loạn, sau là Lý Nhất Tâm Bất Loạn, thì vãng sanh Thật Báo Trang
Nghiêm Độ (Thượng Phẩm).
15. Hỏi:
Con quy y với vị Thầy, Thầy con tu chứng được vãng sanh
Cực Lạc vậy con có được vãng sanh theo Thầy con không? Và bạn con lầm lỡ
quy y với tà sư. Khi tà sư bị đọa, vậy bạn con có bị đọa theo vị tà sư
đó hay không?
- Đáp: Cả hai đều KHÔNG. Người xưa nói: “Ông tu, ông chứng, bà tu, bà
đắc” và “Tội ai làm nấy chịu”. Luật nhân quả đấy “Tự tác hoàn tự thọ”,
nghĩa là tự mình làm, tự mình chịu, không ai thay thế cho ai được cả.
16. Hỏi:
Nguyện thứ 19 nói: “Lúc tôi thành Phật, thập phương
chúng sanh phát Bồ Đề Tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước tôi,
đến khi lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện trước người đó,
thời tôi không thủ ngôi Chánh Giác”. Như vậy thì con phát Bồ Đề Tâm,
thỉnh thoảng chủ nhật con đến chùa làm công quả, cúng dường Tam bảo,
tụng kinh, niệm Phật, bái sám gọi là tu công đức, nếu công đức nhiều thì
ở phẩm vị cao, công đức ít thì vãng sanh ở phẩm vị thấp, phải không
Thầy?
- Đáp: Kinh A Di Đà nói: “Không thể lấy chút ít căn lành, phước đức,
nhân duyên mà được sanh về cõi Cực Lạc”. Do vậy Cổ đức dạy: “Công đức
nói ở nguyện thứ 19 là công đức rốt ráo, như bố thí phải là Bố Thí Ba La
Mật” (rốt ráo) nên Nhị Tổ Thiện Đạo Đại Sư nói trong Quán Kinh Sớ, đây
là Tạp tu (cách nói trên), ngàn người tu chỉ có năm, ba người vãng sanh
mà thôi.
Vả lại, trong kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình
Đẳng Giác Kinh (do Ngài Hạ Liên Cư hội tập) có thêm đoạn văn như sau: “
Phụng hành sáu Ba La Mật kiên cố bất thoái, nhất tâm niệm tôi, ngày đêm chẳng ngớt“,
điều này chứng minh rằng công đức nói trên phải là công đức rốt ráo (Ba
La Mật), đồng thời phải nhứt tâm niệm Phật ngày đêm không gián đoạn mới
chắc được vãng sanh.
17. Hỏi:
Vậy thì phải tu sao để được bảo đảm vãng sanh?
- Đáp: Phải chuyên tu chánh hạnh, chánh nghiệp như đã trình bày ở phần 5 (Chuyên tu chánh hạnh).
18.- Hỏi:
Tu Tịnh Độ thuộc Tiểu thừa hay Đại thừa?
- Đáp: Giáo pháp Tiểu thừa không có tịnh độ. Vậy là thuộc Đại thừa.
Nhưng nếu người niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc mà không phát tâm cứu độ
chúng sanh, như vậy là không có Bồ Đề Tâm, thuộc căn tánh Tiểu thừa.
Không đúng đại nguyện của Phật A Di Đà nên không được vãng sanh.
19. Hỏi:
Vậy sao kinh nói ở Cõi Cực Lạc có Thanh Văn, Duyên Giác nhiều vô số kể?
- Đáp: Những vị nầy trước tu theo Tiểu thừa (Nguyên Thủy) sau phát
tâm hướng Đại thừa (thượng cầu hạ hóa) nghĩa là trên thì cầu thành Phật
đạo, dưới là giáo hóa (độ) chúng sanh nên được vãng sanh.
20. Hỏi:
Kinh nói từ Thập Tín trở lên phải tu hai đại A Tăng Kỳ
Kiếp (vô số kiếp) mới đạt giai vị Bát Địa Bồ Tát (Bất Động Địa Bồ Tát)
thì đắc Tam Bất Thối (Vị Bất Thối, Hạnh Bất Thối và Niệm Bất Thối). Kinh
A Di Đà lại nói: “Này Xá Lợi Phất! Những chúng sinh, sinh về Cực Lạc là
hàng A Bệ Bạt Trí”. A Bệ Bạt Trí là Bất Thối Chuyển. Vậy hai kinh đó có
trái ngược nhau không?
- Đáp: Không trái ngược nhau. Kinh trước nói Bất thối về địa vị tu
hành. Kinh A Di Đà nói bất thối về nơi chốn (Xứ Bất Thối). Người sanh về
Tây Phương Tịnh Độ không có năm thoái duyên không bị lùi sụt.
Năm thoái duyên là:
(1) Yểu mệnh và lắm bịnh.
(2) Có người nữ và sáu trần gây ô nhiễm
(3) Giao du với người làm ác, tức là gặp ác trí thức.
(4) Có tâm bất thiện,Tâm ác
(5) Thường không gặp Phật.
Ở Cực Lạc không có năm thoái duyên nầy cho nên chúng sinh ở đây đều được bất thối.
21. Hỏi:
Thế nào là cực trọng nghiệp và ảnh hưởng việc tái sanh ra sao?
- Đáp: Cực trọng nghiệp là nghiệp hết sức lớn. Có hai loại: Thiện và
Bất Thiện (ác). Người niệm Phật đạt Lý Nhất Tâm Bất Loạn là Thiện Cực
trọng nghiệp. Trong lúc thân còn ở Ta Bà mà thần thức đã vãng sanh Cực
Lạc trường hợp Thừa Viễn Đại Sư, Tổ thứ ba Liên Tông. Về thân xác muốn
xả bỏ hay lưu giử là tùy ý gọi là sinh tử tự tại. Người phạm tội ngũ
nghịch là giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật ra máu hay phá
hòa hợp Tăng là Ác Cực trọng nghiệp. Tội này sa địa ngục A Tỳ (Địa ngục
vô gián). Minh Tuệ đã chứng kiến một vị chưa chết mà nửa đêm bị quỷ sứ
hành hạ đủ cách.
22. Hỏi:
Thế nào là tích lũy nghiệp, ảnh hưởng ra sao?
- Đáp: Tích lũy nghiệp là nghiệp tích lũy nhiều đời, nhiều kiếp cộng
với kiếp hiện tại. Tích lũy nhiều thành cực trọng nghiệp, ít thì ra Cận
tử nghiệp.
23.- Hỏi:
Cận tử nghiệp là gì?
- Đáp: Là nghiệp trước giờ lâm chung.
24.- Hỏi:
Người tu hành có bị cận tử nghiệp chi phối không?
- Đáp: Cũng có, cũng không. Có hai trường hợp:
a.- Những vị tu hành chứng đạo, đắc đạo như Tịnh Độ Tông thì niệm
Phật đạt Lý Nhất Tâm Bất Loạn hay Lý Niệm Phật Tam Muội, thì tự tại vãng
sanh, Thiền Tông thì nghiệp sạch tình không. Mật Tông thì “Tam Mật
tương ưng” (ba nghiệp thân, khẩu, ý hoàn toàn thanh tịnh) tùy nguyện tái
lai. Những vị đắc quả A La Hán thì nhập Niết Bàn.
b.- Ngoài những vị nói trên đều bị cận tử nghiệp chi phối, điển hình:
- Vua A Kỳ Đạt suốt đời hộ trì Tam Bảo như cất chùa, nuôi tăng v.v…
Giờ chót bị người hầu làm rớt cây quạt vào mặt, nổi sân rồi chết, sanh
làm con rắn mãng xà.
- Thiền sư công phu đắc lực, những ngày cuối cùng thương mến chăm sóc
bụi mía trước am, để rồi chết sanh làm con sâu trong thân cây mía.
- Vị Ưu Bà Tắt nọ trước khi thân hoại mạng chung, vì quá yêu thương vợ nên tái sanh làm con vòi trong mũi vợ.
- Vua A Dục Ka (Asoka) đã từng xây cất 84.000 cảnh chùa, 84.000 cái tháp
đền, đài thọ chi phí cho kỳ kiết tập kinh điển lần ba. Khi sắp lâm
chung, vua ra lệnh đem của cải trong kho ra bố thí trọng đại để làm
phước trước khi chết. Vị quan giữ kho phản đối. Nhà vua tức giận rồi
chết, đầu thai làm con rắn độc trong vườn ngự uyển chờ cơ hội thuận tiện
cắn chết ông quan giữ kho để trả thù.
25. Hỏi:
Quán Kinh dạy hành giả Tịnh Độ tu Tam phước. Quý Thầy
cũng khuyến khích Phật tử tu Tam phước. Vậy tu Tam phước có bảo đảm vãng
sanh không?
- Đáp: Theo Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ: Tam phước là Tán Thiện, tu 13 phép
Quán mới là Định Thiện. Quán Kinh Sớ quyển bốn nói rằng công hạnh có
hai loại: chánh và tạp. Tam phước thuộc tạp hạnh. Nhị Tổ Thiện Đạo Đại
Sư nói: “Người tu tạp hạnh, ngàn người tu chỉ có năm ba người vãng
sanh”.
26- Hỏi:
Hành giả Tịnh Độ phải tu sao để được bảo đảm vãng sanh?
- Đáp: Trong kệ niệm Phật, Hòa thượng Trí Tịnh nói: “Người niệm Phật
phải đạt từng công phu thấp nhất là Bất Niệm Tự Niệm mới bảo đảm vãng
sanh”. Muốn đạt Bất Niệm Tự Niệm phải chuyên tu chánh hạnh, chánh nghiệp
theo sự dạy bảo của Nhị Tổ Thiện Đạo (Xin xem phần 5, Chuyên tu chánh
hạnh).
27- Hỏi:
Có cần lần chuỗi để niệm Phật không?
- Đáp: Mục đích lần chuỗi là để:
- Cột tâm ý vào hột chuỗi, không cho khởi vọng niệm, vọng tưởng.
- Đếm được số câu niệm Phật, cố niệm cho đủ số đã ấn định, tránh lười biếng giải đải.
Vậy rất cần cho những vị mới tập niệm Phật. Nhưng nếu không khéo,
niệm lâu thành thói quen (tập khí) thì miệng niệm, tay lần chuỗi mà ý tự
do phóng túng nghĩ tưởng lung tung đủ thứ, hoặc vì muốn cho đủ số cố
gắng niệm quá nhanh, miệng niệm lia lịa, tay lần chuỗi liền tù tì, mà
tâm không bắt kịp tiếng. Trường hợp này miệng niệm Phật, tay lần chuỗi
mà tâm không có Phật, gọi là hữu khẩu vô tâm. Tổ Đức Nhuận bảo: “Niệm
như vậy cho bể cuống họng cũng hoàn không”. Nghĩa là vô ích. Vậy lần
chuỗi phải chân thật, tránh làm lấy lệ, biểu diễn. Mặt khác ý theo dõi
đếm số là bị phân tâm. Tay lần chuỗi, làm thân động, thân động thì tâm
động theo (không an định). Vì những lý lẽ trên, hành giả niệm Phật lâu
rồi không cần dùng chuỗi, nếu muốn tính số câu Phật hiệu đã niệm thì tốt
hơn nên dùng đồng hồ tính thời gian đã niệm.
28. Hỏi:
Kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy tu Tam Phước. Phước thứ ba là Phát Bồ Đề Tâm. Vậy làm sao Phát Bồ Đề Tâm?
- Đáp: Bồ Đề là tên khác của quả vị Phật. Bồ Đề Tâm là Tâm làm Phật.
Phát Bồ Đề Tâm là phát khởi cái tâm trên cầu thành Phật đạo, dưới giáo
hóa chúng sanh (thượng cầu hạ hóa). Đấy là Bồ Đề Tâm nguyện.
Có một số ít chùa thực hiện lễ Phát Bồ Đề Tâm theo nghi thức đặc biệt.
- Tịnh Độ Tông Thập Nhất Tổ Tịnh Am Đại Sư dạy: “Tướng trạng Bồ Đề
Tâm có tám, đó là: Chánh, Tà, Chân, Ngụy, Đại, Tiểu, Thiên Viên”. Nên
đọc Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn.
- Tịnh Độ Tông Cửu Tổ Ngẫu Ích Đại Sư dạy: “Người niệm Phật A Di Đà
cầu nguyện vãng sanh Cực Lạc, để thành Phật cứu độ hết thảy chúng sanh”.
Đó là đương nhiên đã phát Bồ Đề tâm rồi.
29. Hỏi:
Bồ Đề Tâm Hạnh là sao?
- Đáp: Bồ Đề Tâm Hạnh là những thiện hạnh nhằm mục đích thành Phật độ chúng sanh.
Nó rộng lớn bao trùm lục độ Vạn hạnh của Bồ Tát. Hành giả tu 52 giai
vị Bồ Tát (Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng
Giác, Diệu Giác) đều tu Bồ Đề Tâm.
Hạnh để thành Phật. Niệm Phật là hạnh
chánh của Bồ Đề Tâm Hạnh.
30.- Hỏi:
Người ăn thịt mà niệm Phật và người ăn chay mà không niệm Phật, ai hơn ai?
- Đáp: Người niệm Phật hơn người kia.
31.- Hỏi: Công danh, sự nghiệp tột đỉnh. Giàu sang phú quý nhứt đời. Đài sen chín phẩm ở Cực Lạc. Nên chọn cái nào?
- Đáp: Người xưa nói: “Công danh cái thế, màn sương sớm. Phú quý kinh
nhân, giấc mộng dài”. Tạm dịch: “công danh tột đỉnh trên đời này cũng
chỉ là màn sương sớm mai (mặt trời mọc, sương tan tức khắc). Giàu sang
đến nỗi người phải kinh sợ cũng chỉ là giấc mộng dài mà thôi (giả không
thật, không dài lâu)”. Đài sen Chín Phẩm (vãng sanh Cực Lạc) là chuyển
phàm thành Thánh, tu hành không thối chuyển một đời thành Phật. Chọn cái
nào, tùy ở quý vị quyết định.
32. Hỏi
: Hạnh khởi giải tuyệt là thế nào?
- Đáp: Bắt đầu công phu phải buông bỏ mọi kiến giải (hiểu biết), kể
cả kiến giải Tịnh Độ. Ví như, dù là tảng đá hay cục vàng, (kiến giải
Tịnh Độ) cũng vẫn án che sức chiếu soi của gương sáng (Phật tánh, Đại
Viên Cảnh Trí).
33.- Hỏi:
Người chuyên tu Tịnh Độ có nên đọc thêm nhiều kinh sách hay nghe băng thuyết pháp để mở rộng thêm kiến thức không?
- Đáp: Hành giả chuyên tu Tịnh Độ chỉ cần học hiểu, nắm vững phương
pháp hành trì là đủ rồi. Điều quan yếu là dũng mãnh tinh tấn hành trì
đạt tối thiểu là Bất Niệm Tự Niệm, để bảo đảm vãng sanh. Nên dùng hết
thời gian học hỏi, mở rộng kiến thức để hành trì, niệm Phật chứng đạt sở
nguyện bảo đảm vãng sanh vẫn tốt hơn. Trong Niệm Phật Tông Yếu, Pháp
Nhiên Thượng Nhơn bảo: “Tu Tịnh Độ Môn thì trở lại ngu si để vãng sanh”
(câu đáp 87 trang 201).
Nên nhớ:
- Thế trí biện thông là một trong tám nạn.
- Đa văn như Ngài A Nan vẫn thọ nạn sắc dục bởi Ma Đăng Già.
- Đừng cậy vào một ít học thức, địa vị thế gian, học
được một ít Kinh Điển Đại Thừa, chấp chặt vào danh từ ngôn ngữ ấy,
tự cho mình là giỏi hơn mọi người, rồi đàm huyền luận diệu với bạn đạo
và quý Thầy, Sư cô, khởi tâm cống cao ngã mạn, lên mặt chê bai chỉ trích
Tăng, Ni thất học, ngu dốt… Thật là tội lỗi vô cùng. Tệ hại hơn là Sở
tri chướng này sẽ tự làm chướng ngại, ngăn chặn đường tiến tu của mình.
Vì vậy chư Tổ dạy: “Hạnh giải phải tuơng ưng” Hiểu biết như vậy, Minh
Tuệ tự nhủ, và hôm nay cũng khuyên quý vị, hãy bắt chước ngu phu, ngu
phụ lão thật niệm Phật, hầu được vãng sanh Cực Lạc, để được “tận mặt gặp
Di Đà, lo gì không khai ngộ”.
- Minh tâm kiến tánh không phải do học rộng hiểu nhiều, mà do hành trì chứng đắc.
34. Hỏi:
Hành giả chuyên tu Tịnh Độ khi lâm bịnh có cần niệm Phật Dược Sư hay tụng kinh Dược Sư để trị bịnh không?
- Đáp: Kinh Vô Lượng Thọ nói: Phật A Di Đà là vua trong các vị Phật
(Phật Trung Chi Vương). Vậy thì Phật Dược Sư trị lành bịnh, chẳng lẽ
Phật A Di Đà trị bịnh không được sao?
Vả lại nếu niệm Phật Dược Sư, tụng kinh Dược Sư là tạp tu, bị xen tạp và bị gián đoạn rồi.
Vậy thì niệm Phật A Di Đà, nhứt cử không những lưỡng tiện mà là vạn tiện (được lành bịnh, lại thêm được vãng sanh Cực Lạc).
35. Hỏi:
Một người suốt đời làm ác, phút lâm chung niệm A Di Đà Phật, có được vãng sanh không?
- Đáp: Được vãng sanh vì đáp ứng đúng đại nguyện của Đức Phật A Di
Đà, nhưng thử hỏi có mấy ai niệm được? Thiên, thiên nan, vạn, vạn nan,
ức, ức, ức, người chưa từng có một. Hành giả tu Tịnh nghiệp yếu, chưa
đạt Bất Niệm Tự Niệm, còn chưa bảo đảm vãng sanh (như đã nói ở phần 3).
Kế đến người thiện mà chưa tu Tịnh Độ giờ phút lâm chung cũng không tài
nào niệm Phật được. Huống hồ gì người suốt đời làm ác.
36. Hỏi:
Tổ thứ chín Ngẫu Ích Đại Sư dạy: “Vãng sanh hay không là
do có Tín, Nguyện hay không. Còn phẩm vị cao hay thấp là do công phu
sâu hay cạn”. Vậy thì hành giả chỉ có Tín, Nguyện mà không có Hạnh được
bảo đảm vãng sanh hay không?
- Đáp: Tín và Nguyện Tổ dạy đây là Tin sâu, Nguyện thiết. Có tin mới
có nguyện, nguyện mà không hành là nguyện suông (không tha thiết), coi
như không có nguyện, nên không vãng sanh.
Ví như, quý vị ở Mỹ lâu năm, nhớ cha mẹ hay con cháu ở Việt Nam, khát
khao, ao ước, muốn (nguyện) về Việt Nam, nhưng chỉ muốn suông, không có
thông hành, không có chiếu khán, lại không mua vé bay hay vé tàu, để đi
về thì thử hỏi quý vị có được về Việt Nam hay không? Vãng sanh Cực Lạc
cũng không ngoài nguyên lý này. Tín, Nguyện, Hạnh là ba chân của cái
đảnh, thiếu một, đảnh sẽ ngã.
Nói rõ hơn, có Tín sâu, mới Nguyện thiết, có Nguyện thiết mới có Hành
chuyên, Hành bền và ngược lại, nghĩa là ba thứ này tác động hỗ tương
lẫn nhau, đồng tiến, đồng thoái, đồng diệt.
Kinh nghiệm bản thân cho thấy, khi hành càng chuyên, hành càng bền,
nhất là đạt Bất Niệm Tự Niệm, thì Tín và Nguyện càng sâu, càng thiết tha
hơn.
37. Hỏi:
Hành giả có Hạnh (niệm A Di Đà, đạt Bất Niệm Tự Niệm) mà không có Tín, Nguyện có được bảo đảm vãng sanh hay không?
- Đáp: Hành giả không có Tín, Nguyện khó mà đạt Bất Niệm Tự Niệm, dù
cho có đạt cũng không được vãng sanh. Vì lẽ đương nhiên không có cầu,
không có cảm, làm sao có ứng?
Cổ Đức đã từng dạy: “Dù cho niệm Phật vững như tường đồng vách sắt,
mưa tạt không vào, gió thổi không lọt, như thế cũng không được vãng
sanh” vì thiếu cảm ứng. Tín, Nguyện, Hạnh là ba món tư lương của Tịnh Độ
Tông, chúng tương quan mật thiết với nhau, tác động hỗ tương lẫn nhau,
cộng sinh, cộng tồn, thiếu một không phải là hành giả Tịnh Nghiệp. Bởi
vậy người niệm Phật mà không có Tín, Nguyện thì không phải là hành giả
Tịnh Độ, không thuộc Tịnh Độ Tông. Ví như cái đảnh có ba chân thiếu một,
đảnh sẽ ngã.
II. KẾT LUẬN
Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ, đức tướng Như
Lai nhưng vì bị vọng tưởng, phân biệt, chấp trước che lấp nên Phật tánh
không thể hiện bày”. Có nghĩa là nếu dẹp hết vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước thì thành Phật. Tuy nói là ba: vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước nhưng kỳ thật chỉ cần trừ vọng tưởng. Vì có vọng tưởng (vô minh)
mới phân biệt, phân biệt rồi mới chấp trước. Hết vọng tưởng lấy gì để
phân biệt, chấp trước. Niệm Phật là dùng danh hiệu Phật dẹp trừ vọng
tưởng. Niệm Phật thuần thục vọng tưởng tự dứt, tâm tự không, Phật tánh
tự hiện bày, đơn giản thế thôi. Tóm lại, chỉ cần có niềm tin vững chắc,
có niềm tin tuyệt đối rồi, quyết tâm hạ thủ công phu bằng mười sáu chữ
sau đây:
“BUÔNG XẢ VẠN DUYÊN,
NHẤT TÂM NIỆM PHẬT,
NIỆM NHIỀU, KHÔNG XEN TẠP,
KHÔNG GIÁN ĐOẠN”.
Quyết định sẽ thành tựu chí nguyện vãng sanh Cực Lạc thành Phật độ chúng sanh.
Nam Mô A Di Đà Phật
LỜI PHẬT DẠY:
Đức Thế Tôn nói:
- Ta là Phật đã thành,
Chúng sanh là Phật sẽ thành.
Chư Tổ nói:
- Chúng sanh vốn dĩ là Phật.
Do đây, Tổ Liên Trì đại sư nói:
- Sát sanh là giết hại Phật vị lai,
tội lớn nhất (cực ác).
Phóng sanh là cứu mạng sống Phật vị lai,
là phước lớn nhất (cực thiện).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
01.- Tịnh Độ Tam Kinh, Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch.
02.- Kinh Niệm Phật Ba La Mật, Cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch.
03.- Kinh Pháp Cú.
04.- Kệ Niệm Phật, Hòa thượng Thích Trí Tịnh giảng giải.
05.- Niệm Phật Thập Yếu, Cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm biên soạn.
06.- Niệm Phật Cảnh, Đại Sư Thiện Đạo tập ký, Thích Minh Thành dịch.
07.- Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ, Đại Sư Thiện Đạo tập ký, Thích Pháp Chánh dịch.
08.- Liên Trì Cảnh Sách, Thích Quang Ánh dịch.
09.- Pháp Ngữ, Đại Sư Ngẫu Ích tập ký, Như Hòa dịch.
10.- Triệt Ngộ Đại Sư Thị Chúng, Thích Nguyên Chơn dịch.
11.- Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập, Niệm Phật Tông Yếu, Pháp
Nhiên Thượng Nhân Soạn, Thích Tịnh Nghiêm và Nguyễn Văn Nhàn dịch.
12.- Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao, Như Hòa dịch.
13.- Tịnh Độ Tuyển Tập, Tuyết Hư Lão Nhân tập ký, Như Hòa dịch.
14.- Pháp Ngữ, Hòa thượng Tịnh Không tập ký, Thích Nguyên Tạng dịch.
- Công Đức Niệm Phật, Hoà thượng Tịnh Không tập ký, Thích Nguyên Tạng dịch.
16.- Từ điển Bách Khoa Phật Giáo Việt Nam: Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ chủ trương, Lê Mạnh Thát chủ biên.
17.- Pháp Môn Dễ Tu, Dễ Chứng, Hợp Thời Cơ, Thích Thông Lạc dịch.
18.- Luận Tịnh Độ, Nguyên tác Thích Ca Tài.
19.- Tịnh Độ Cảnh Ngữ, Hành Sách Đại Sư tập ký,Thích Minh Thành dịch.
20.- Niệm Phật Kính Luận, Thiện Đạo Đại Sư tập ký, Thích Minh Thành dịch.
21.- Trùng Đính Tây Phương Công Cứ, Ấn Quang Đại Sư, Vật Nhân Pháp Sư tập ký, Như Hoà dịch.
22.- Liên Tông Bửu Giám, Ưu Đàm Đại Sư, Thích Minh Thành dịch.
23.- Đường Về Cực Lạc, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh tập ký.
24.- Tịnh Độ Chỉ Quyết, Đạo Bái Thiền Sư soạn, Thích Minh Thành dịch.
25.- Tịnh Độ Pháp Ngữ (Lá Thư Tịnh Độ, Hương Quê Cực Lạc Tịnh Độ Thập
Nghi Luận, Tịnh Độ Hoặc Vấn), Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm dịch.
LỜI HAY Ý ĐẸP:
Hành giả Tịnh Độ không chết, sống mà ra đi.
Vãng sanh Cực Lạc là chuyển phàm thành Thánh,
liễu sanh thoát tử, đủ sáu phép thầnh thông,
bất thoái chuyển, nhất sanh bổ xứ, vô lượng
thọ, một đời thành Phật.
Bởi vậy nói: Vãng sanh tức thành Phật.
HỒI HƯỚNG:
Nguyện đem công đức này.
Hướng bốn ân ba cõi.
Khắp pháp giới chúng sanh.
Đồng vãng sanh Cực Lạc.
Thành Phật độ chúng sanh.
Nam Mô Công Đức Lâm Bồ Tát Ma Ha Tát.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT