Có lẽ bạn chưa bao giờ nghĩ việc sử dụng nước đá lại có thể giúp phục hồi cơ thể, đẩy lùi lão hóa và chữa nhiều bệnh. Điều này còn phụ thuộc vào vị trí tiếp xúc giữa nước đá và da.Kỹ thuật này gần giống với thuật châm cứu của Trung Quốc và theo đó, điểm đặt cục nước đá được gọi là Feng Fu, đọc là “Phong Phủ” (Wind Masion – Phủ gió). Điểm này chính là ót của bạn.
Tất cả những gì bạn cần làm là giữ cục nước đá trong vòng 20 phút ở điểm Feng Fu. Đương nhiên, mới đầu bạn sẽ cảm thấy lạnh, nhưng sau tầm 30-40 giây, bạn sẽ thấy ấm hơn.
Vị trí điểm Feng Fu.Làm như thế mỗi ngày, bạn sẽ cảm thấy vui vẻ và phấn chấn. Điều này là do nước đá sẽ giải phóng hóc-môn endorphin tới các mạch máu. Đây được gọi là hóc-môn hạnh phúc trong não, có tác dụng giảm đau.
Ngoài ra, kỹ thuật này còn đem lại nhiều lợi ích sức khỏe cho bạn như:
- Ngủ ngon hơn
- Tâm trạng sảng khoái và tràn đầy sức sống
- Tăng cường hoạt động của hệ tiêu hóa
- Chữa cảm lạnh, cảm sốt
- Hỗ trợ giảm đau đầu, đau răng, đau khớpKĩ thuật này rất hữu ích với người hay bị đau đầu.Bạn có thể bổ sung phương pháp này trong quá trình điều trị các bệnh sau:
- Bệnh đường hô hấp
- Các bệnh tim mạch
- Bệnh thần kinh và thoái hóa cột sống
- Bệnh lây truyền qua đường tình d.ục
- Rối loạn chức năng tuyến giáp
- Viêm khớp, huyết áp cao và huyết áp thấp.
- Hen phế quản- Đau dạ dày cấp tính
Người đau dạ dày cấp tính cũng có thể trông cậy vào Feng Fu.- Bệnh đường tiêu hóa, béo phì và suy dinh dưỡng
- Viêm dưới da (đặc biệt là ở giai đoạn đầu)
- Rối loạn chu kỳ kinh nguyệt và nội tiết, vô sinh
- Rối loạn tâm lý, cảm xúc, căng thẳng, mệt mỏi kinh niên, trầm cảm, mất ngủ
Lưu ý:Phương pháp này chống chỉ định với những người bị tâm thần, động kinh, sử dụng máy điều hoà nhịp tim và mang thai.
Mẹo: Tư thế thoải mái nhất để thực hiện kỹ thuật này là nằm sấp, kê gối dưới vai để tạo khoảng không dễ thở. Đặt viên nước đá vào phần lõm ngay chỗ tiếp giáp giữa đầu và cổ bạn. Dùng khăn chặn hai bên để ngăn nước đá chảy, nằm im thư giãn trong ít nhất 20 phút.Theo http://bestie.vn/
Hiển thị các bài đăng có nhãn SỨC KHỎE VÀ BỆNH TẬT. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn SỨC KHỎE VÀ BỆNH TẬT. Hiển thị tất cả bài đăng
Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016
Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014
Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2014
7 Ứng dụng chủ yếu của delta-Immune - Bảo thọ , tăng sức đề kháng giảm nguy co gây bệnh. chỉ với 700vnđ/ngày
7 Ứng dụng chủ yếu của delta-Immune
1. Tăng cường sức mạnh và hiệu quả của hệ miễn dịch, chống lại các bệnh viêm nhiễm nói chung do vi khuẩn, virus gây ra nhờ tác động tăng sinh lympho B (miễn dịch thể dịch) và lympho T (miễn dịch tế bào).
2. Trên ống tiêu hóa: Immune Gamma trở thành những dưỡng chất bổ sung cấu tạo nên lớp biểu mô (epiteli) của lông nhung ruột non và thành ruột già. Nhờ thế giúp tối ưu hóa khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng tại ruột non, tăng khả năng tái hấp thụ nước và dưỡng chất tại ruột già. Hiệu quả rõ rệt trên các thực nghiệm giúp tiêu hóa tốt cho trẻ biếng ăn và hồi phục đại tràng trong các trường hợp viêm cấp và mãn tính ở người lớn.
3. Với các bệnh ngoài đường tiêu hóa:
- Nhiễm khuẩn hô hấp: Vận động viên và trẻ nhỏ uống Lactobacillus fermentum thấy giảm rõ nhiễm khuẩn đường hô hấp.
- Nhiễm khuẩn đường tiết niệu – sinh dục: Lactobacilli trú ngụ được ở âm đạo, dùng trong nhiễm nấm Candida và E.coli đường niệu – sinh dục nữ. Tác dụng kép: ức chế trực tiếp tại chỗ vi khuẩn và thúc đẩy hệ miễn dịch niêm mạc âm đạo.
4. Với các bệnh ngoài da: Immune Gamma cải thiện viêm da dị ứng ở trẻ nhỏ, có hiệu lực chống eczema, vảy nến, chứng mũi đỏ.
5. Với bệnh ung thư: Lymphô T làm tăng khả năng của đại thực bào diệt các tác nhân gây bệnh nội sinh và tế bào u, vì vậy Immune Gamma kích thích sinh trưởng lymphô T và làm giảm các giai đoạn ban đầu của phát triển ung thư (đại tràng, cổ tử cung, phổi, bàng quang, bệnh bạch cầu) làm giảm rõ nguy cơ mắc lại ung thư bàng quang nguyên phát.
6. Tác dụng kháng khuẩn: Immune Gamma chống một số khuẩn gây bệnh như E.coli, H.pylori, Listeria monocytogenes, Salmonella thyphimurium.
7. Tác dụng khác: Chống viêm khớp, bệnh gan, tự kỷ, hội chứng mệt mỏi mạn tính.
1. Tăng cường sức mạnh và hiệu quả của hệ miễn dịch, chống lại các bệnh viêm nhiễm nói chung do vi khuẩn, virus gây ra nhờ tác động tăng sinh lympho B (miễn dịch thể dịch) và lympho T (miễn dịch tế bào).
2. Trên ống tiêu hóa: Immune Gamma trở thành những dưỡng chất bổ sung cấu tạo nên lớp biểu mô (epiteli) của lông nhung ruột non và thành ruột già. Nhờ thế giúp tối ưu hóa khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng tại ruột non, tăng khả năng tái hấp thụ nước và dưỡng chất tại ruột già. Hiệu quả rõ rệt trên các thực nghiệm giúp tiêu hóa tốt cho trẻ biếng ăn và hồi phục đại tràng trong các trường hợp viêm cấp và mãn tính ở người lớn.
3. Với các bệnh ngoài đường tiêu hóa:
- Nhiễm khuẩn hô hấp: Vận động viên và trẻ nhỏ uống Lactobacillus fermentum thấy giảm rõ nhiễm khuẩn đường hô hấp.
- Nhiễm khuẩn đường tiết niệu – sinh dục: Lactobacilli trú ngụ được ở âm đạo, dùng trong nhiễm nấm Candida và E.coli đường niệu – sinh dục nữ. Tác dụng kép: ức chế trực tiếp tại chỗ vi khuẩn và thúc đẩy hệ miễn dịch niêm mạc âm đạo.
4. Với các bệnh ngoài da: Immune Gamma cải thiện viêm da dị ứng ở trẻ nhỏ, có hiệu lực chống eczema, vảy nến, chứng mũi đỏ.
5. Với bệnh ung thư: Lymphô T làm tăng khả năng của đại thực bào diệt các tác nhân gây bệnh nội sinh và tế bào u, vì vậy Immune Gamma kích thích sinh trưởng lymphô T và làm giảm các giai đoạn ban đầu của phát triển ung thư (đại tràng, cổ tử cung, phổi, bàng quang, bệnh bạch cầu) làm giảm rõ nguy cơ mắc lại ung thư bàng quang nguyên phát.
6. Tác dụng kháng khuẩn: Immune Gamma chống một số khuẩn gây bệnh như E.coli, H.pylori, Listeria monocytogenes, Salmonella thyphimurium.
7. Tác dụng khác: Chống viêm khớp, bệnh gan, tự kỷ, hội chứng mệt mỏi mạn tính.
Cà Phê Giảm Cân Leptin Coffee Weight Loss
Giới thiệu chung
Cà Phê Giảm Cân Leptin - Coffee Weight Loss. Lưu ý trên hộp sản phẩm có dây đai 7 màu và chữ COFFEE WEIGHT LOSS là chữ nổi
Cafe Giam Can Leptin - Coffee Weight Loss Cân nặng không chỉ là nỗi lo của riêng chị em phụ nữ mà nó còn tác động đến nam giới, những người ở độ tuổi trung niên, thường đối mặt với các căn bệnh nguy hiểm như: tiểu đường, tim mạch… Có nhiều cách để giữ cho thân hình cân đối, khỏe mạnh nhưng quan trọng là bạn nên chọn giải pháp tốt nhất, hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất.
Cà Phê Giảm Cân Leptin - Coffee Weight Loss chất lượng cao, an toàn và phù hợp nhiều đối tượng – sản phẩm cà phê giảm cân leptin Linh Chi được sản xuất theo nghiên cứu và công nghệ tiên tiến nhất của Mỹ.
Thông tin sản phẩm Cà Phê Giảm Cân Leptin - Coffee Weight Loss
Thành phần chính: cà phê + nấm Linh Chi và các thành phần khác như:
- Garcinia: giúp giảm cân tốt.
- Cla: giúp giảm lượng mỡ thừa trong cơ thể.
- Biotin: giúp xử lí protein và chất béo.
- Chromium: giúp giảm đường trong máu, ngăn cản sự thèm ăn.
- Taurine: giúp giảm lượng cholestorol, giảm stress và chống lại sự suy nhược cơ thể.
- Cayenne: giúp đẩy nhanh quá trình trao đổi chất.
- Green tea: giúp tăng quá trình trao đổi chất.
- Gingseng (nhân sâm Hàn Quốc): giúp cân bằng năng lượng cho cơ thể.
- Đặc biệt cà phê: chứa 1.000 chất chống oxy hoá.
Chỉ cần 1 ly cà phê mỗi ngày nhưng lại là giải pháp giảm cân hiệu quả mà bạn không ngờ tới. Những thành phần dưỡng chất trong Cà Phê Linh Chi sẽ giúp bạn và người thân sống vui khỏe mỗi ngày mà không lo về cân nặng.
Quy cách đóng gói: 1 hộp 20 gói, mỗi gói 5gram
Hướng dẫn sử dụng: Pha 1 gói Cà phê Linh chi với 125 ml nước sôi, sử dụng hàng ngày vào mỗi sáng.
Tất cả các thành phần trên trong Cà phê Linh chi đã được thẩm định, đánh giá về mặt y tế với tiêu chí 3 KHÔNG: không chất hoá học, không chất béo, không calo. Vì vậy, sử dụng Cà phê Linh chi sẽ giúp bạn giảm cân nhanh chóng, an toàn và hiệu quả.
Tác dụng của café giảm cân Linh chi
Theo nghiên cứu của Hiệp hội Cà phê quốc tế, những người uống cà phê hàng ngày có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường đến 50% và cà phê có thể giúp bạn giảm bớt căng thẳng, tăng cường sức khoẻ, xoá tan sự mệt mỏi và giảm nguy cơ mắc bệnh parkinson.
Cà phê Linh chi là sự kết hợp giữa 2 thành phần chính là cà phê và nấm linh chi. Với các hoạt chất giúp tiêu hao lượng mỡ sâu trong cơ thể mà không gây cho bạn cảm giác mệt mỏi, lo âu hay bất an.
- Không dùng cho trẻ em dưới 12 tuổi, phụ nữ có thai và đang cho con bú.
- Tùy theo cơ địa của mỗi người, giảm cân có thể khác nhau, khi giảm cân cần phối hợp với các hoạt động thể dục thể thao để đạt hiệu quả giảm cân tốt nhất.
- Cà phê giảm cân Leptin là dạng thực phẩm chức năng không phải thuốc chữa bệnh nên không thể thay thế thuốc chữa bệnh.
Cà Phê Giảm Cân Leptin Coffee Weight Loss.
Giúp
giảm cân hiệu quả nhờ thành phần cà phê và nấm linh chi. Bên cạnh đó,
sản phẩm còn tăng cường sức đề kháng, giúp tinh thần minh mẫn, giảm căng
thẳng…
Cà Phê Giảm Cân Leptin - Coffee Weight Loss. Lưu ý trên hộp sản phẩm có dây đai 7 màu và chữ COFFEE WEIGHT LOSS là chữ nổi
Cafe Giam Can Leptin - Coffee Weight Loss Cân nặng không chỉ là nỗi lo của riêng chị em phụ nữ mà nó còn tác động đến nam giới, những người ở độ tuổi trung niên, thường đối mặt với các căn bệnh nguy hiểm như: tiểu đường, tim mạch… Có nhiều cách để giữ cho thân hình cân đối, khỏe mạnh nhưng quan trọng là bạn nên chọn giải pháp tốt nhất, hiệu quả nhất, tiết kiệm nhất.
Cà Phê Giảm Cân Leptin - Coffee Weight Loss chất lượng cao, an toàn và phù hợp nhiều đối tượng – sản phẩm cà phê giảm cân leptin Linh Chi được sản xuất theo nghiên cứu và công nghệ tiên tiến nhất của Mỹ.
Thông tin sản phẩm Cà Phê Giảm Cân Leptin - Coffee Weight Loss
Thành phần chính: cà phê + nấm Linh Chi và các thành phần khác như:
- Garcinia: giúp giảm cân tốt.
- Cla: giúp giảm lượng mỡ thừa trong cơ thể.
- Biotin: giúp xử lí protein và chất béo.
- Chromium: giúp giảm đường trong máu, ngăn cản sự thèm ăn.
- Taurine: giúp giảm lượng cholestorol, giảm stress và chống lại sự suy nhược cơ thể.
- Cayenne: giúp đẩy nhanh quá trình trao đổi chất.
- Green tea: giúp tăng quá trình trao đổi chất.
- Gingseng (nhân sâm Hàn Quốc): giúp cân bằng năng lượng cho cơ thể.
- Đặc biệt cà phê: chứa 1.000 chất chống oxy hoá.
Chỉ cần 1 ly cà phê mỗi ngày nhưng lại là giải pháp giảm cân hiệu quả mà bạn không ngờ tới. Những thành phần dưỡng chất trong Cà Phê Linh Chi sẽ giúp bạn và người thân sống vui khỏe mỗi ngày mà không lo về cân nặng.
Quy cách đóng gói: 1 hộp 20 gói, mỗi gói 5gram
Hướng dẫn sử dụng: Pha 1 gói Cà phê Linh chi với 125 ml nước sôi, sử dụng hàng ngày vào mỗi sáng.
Tất cả các thành phần trên trong Cà phê Linh chi đã được thẩm định, đánh giá về mặt y tế với tiêu chí 3 KHÔNG: không chất hoá học, không chất béo, không calo. Vì vậy, sử dụng Cà phê Linh chi sẽ giúp bạn giảm cân nhanh chóng, an toàn và hiệu quả.
Tác dụng của café giảm cân Linh chi
Theo nghiên cứu của Hiệp hội Cà phê quốc tế, những người uống cà phê hàng ngày có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường đến 50% và cà phê có thể giúp bạn giảm bớt căng thẳng, tăng cường sức khoẻ, xoá tan sự mệt mỏi và giảm nguy cơ mắc bệnh parkinson.
Cà phê Linh chi là sự kết hợp giữa 2 thành phần chính là cà phê và nấm linh chi. Với các hoạt chất giúp tiêu hao lượng mỡ sâu trong cơ thể mà không gây cho bạn cảm giác mệt mỏi, lo âu hay bất an.
Hướng dẫn sử dụng:
- Pha 1 gói Cà phê giảm cân Leptin với 125ml nước sôi.
- Sử dụng hàng ngày vào mỗi sáng.
- Dùng trước bữa sáng 30 phút.
- Kết hợp với các bài tập nhẹ thì hiệu quả sẽ càng cao.
Lưu ý :- Pha 1 gói Cà phê giảm cân Leptin với 125ml nước sôi.
- Sử dụng hàng ngày vào mỗi sáng.
- Dùng trước bữa sáng 30 phút.
- Kết hợp với các bài tập nhẹ thì hiệu quả sẽ càng cao.
- Không dùng cho trẻ em dưới 12 tuổi, phụ nữ có thai và đang cho con bú.
- Tùy theo cơ địa của mỗi người, giảm cân có thể khác nhau, khi giảm cân cần phối hợp với các hoạt động thể dục thể thao để đạt hiệu quả giảm cân tốt nhất.
- Cà phê giảm cân Leptin là dạng thực phẩm chức năng không phải thuốc chữa bệnh nên không thể thay thế thuốc chữa bệnh.
Thứ Năm, 6 tháng 3, 2014
TĂNG SỨC ĐỀ KHÁNG NGĂN NGỪA BỊNH TẬT VÀ SỐNG THỌ BẰNG DELTA-IMMUNE CHỈ DÙNG 1-2 VIÊN 700VNĐ/NGÀY.
Lịch sử ra đời.
Năm 1986, cả thế giới biết đến thảm họa Chernobyl, đã có khoảng 20000 người đã thiệt mạng và hàng triệu người đã bị nhiễm phóng xạ lâu dài. Trước tình hình đó, nhà nước Liên xô đã chỉ thị cho các nhà khoa học tích cực nghiên cứu để tìm ra chế phẩm có hiệu lực tăng cường sức đề kháng, an toàn và kinh tế nhằm cải thiện sức khỏe và cuộc sống của các nạn nhân.
Viện nghiên cứu quốc gia về chế phẩm sinh học tại Leningrad đã thành công sau khi nghiên cứu khoảng hơn 600 chế phẩm. Các nhà khoa học đã chọn được 1 chế phẩm đạt được các tiêu chí đề ra.
Đó chính là Delta-Immune (còn gọi là Russian choice Immune).
Sản phẩm còn được đưa sang Mỹ, tại Viện nghiên cứu dị ứng California để nghiên cứu tác dụng tăng cường miễn dịch cũng như việc sản xuất công nghiệp, đảm bảo độ ổn định cao.
Tuy nhiên, ngay từ đầu thế kỷ 20, Elie Metchnikoff (giải thưởng Nobel năm 1908 về hiện tượng thực bào) đã có nhận xét thấy nhiều bộ tộc du mục người Bulgari dùng nhiều chế phẩm sữa lên men có tác dụng chống rối loạn tiêu hóa và sống lâu. Các nhà nghiên cứu Bulgari đã phát hiện ra 1 số chủng Lactobacillus có tác dụng tăng cường miễn dịch, nhất là Lactobacillus bulgaricus (còn gọi là Lactobacillus rhamnosus).
Delta-Immune là gì ?
Delta-Immune có bản chất là vách tế bào của một chủng vi khuẩn lành tính được tách ra từ sữa bò có tên là Lactobacillus rhamnosus.
Lactobacillus rhamnosus là một trong các vi khuẩn lành tính có trong sữa. Nhưng Delta-Immune không phải vi khuẩn sống, mà chỉ là vách peptidoglycan của tế bào vi khuẩn.
Trong quá trình tìm hiểu tại sao Lactobacillus rhamnosus có khả năng tăng cường miễn dịch, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng phần vách tế bào sau khi bị phân giải có hiệu quả điều hòa và kích thích hệ miễn dịch nhiều hơn bội lần do với vi khuẩn sống.
Cơ chế tác dụng của Delta-immune.
Delta-Immune kích thích hệ miễn dịch tại chỗ và toàn thân, cả miễn dịch tế bào và dịch thể. Trong các nghiên cứu trên động vật thực nghiệm, các phần tử peptidoglycan của Delta-immune đã kích thích rất mạnh sự sinh trưởng và biệt hóa của các bạch cầu lympho tại đường ruột cũng như trong máu. Ngoài ra delta-immune còn làm tăng lượng cytokines (các sản phẩm sinh học điều hành hoạt động của tế bào). Đặc biệt là hàm lượng các yếu tố làm tiêu hủy khối u ( TNF-alpha) và interleukin 2, đây là hai hợp chất sinh học có tác dụng tiêu hủy màng bọc của các khối u cũng như các vi khuẩn và siêu vi trùng khi chúng xâm nhập cơ thể. Một điều đáng ngạc nhiên là delta- immune lại có tác dụng điều hòa hoạt tính của TNF-alpha và interleukin để các hoạt chất này không gây tổn thương cho cơ thể trong các bệnh viêm mãn tính, dị ứng và bệnh tự miễn.
Tác dụng của Delta-Immune.
Delta-Immune có hiệu lực tăng cường miễn dịch, nâng cao sức đề kháng của cơ thể nên được dùng đơn lẻ hoặc phối hợp với các chất khác, có tác dụng trong nhiều bệnh khác nhau, đặc biệt là các bệnh rối loạn tiêu hóa, nhiễm trùng mạn, sức đề kháng giảm như bệnh lao, nhiễm siêu vi trùng, và dị ứng.
Delta-Immune được dùng như 1 chế phẩm tăng cường hệ miễn dịch, sử dụng rộng rãi ở Nga trong khoảng gần 20 năm nay và ở Mỹ trong khoảng 5 năm nay.
Russian Discovery Lowers Cholesterol,
Fights Cancer, and Supports Immune System
(Excerpted from Dr. Robert Jay Rowen's SECOND OPINION, March 2005)
Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013
Năm thức tập Suối Nguồn Tươi trẻ của Tây tạng
Năm thức tập Suối Nguồn Tươi trẻ của Tây tạng
Suối nguồn tươi trẻ ---được biết đến lần đầu tiên vào năm 1939, trong cuốn sách "Con mắt khải huyền" của Peter Kelder--- l à một bí quyết màu nhiệm vô cùng đơn giản, chỉ gồm 5 động tác, hay gọi theo cách của các Lạt ma Tây Tạng là 5 thức.
Bảy trung tâm năng lượng mà các Lạt ma nhắc đến chính là 7 luân xa theo quan niệm của y lý học cổ truyền phương Đông. Liên hệ với y học hiện đại phương Tây, các luân xa được một số nhà nghiên cứu coi là đối chứng siêu hình của các tuyến nội tiết, với vị trí và vai trò tương đương.
Theo quan điểm phương Tây, hoạt động của các tuyến nội tiết đóng vai trò vô cùng quan trọng, thậm chí là chi phối quá trình lão hóa. Từ sau tuổi 30, hệ nội tiết bắt đầu suy yếu, lượng hormon giảm dần, tác động trực tiếp lên tinh thần và thể chất, gây ra 12 nhóm triệu chứng rối loạn và các bệnh của người già như da nhăn, tóc bạc, mất ngủ, loãng xương...Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, khôi phục sự cân bằng nội tiết có thể làm chậm quá trình lão hóa, trả lại cho cơ thể nhiều trạng thái của tuổi thanh xuân. Như vậy, tư tưởng chủ đạo của 5 thức tập Suối nguồn tươi trẻ xuất phát từ phương Đông cũng phù hợp với tinh thần của các nghiên cứu khoa học phương Tây.
Theo quan điểm phương Tây, hoạt động của các tuyến nội tiết đóng vai trò vô cùng quan trọng, thậm chí là chi phối quá trình lão hóa. Từ sau tuổi 30, hệ nội tiết bắt đầu suy yếu, lượng hormon giảm dần, tác động trực tiếp lên tinh thần và thể chất, gây ra 12 nhóm triệu chứng rối loạn và các bệnh của người già như da nhăn, tóc bạc, mất ngủ, loãng xương...Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, khôi phục sự cân bằng nội tiết có thể làm chậm quá trình lão hóa, trả lại cho cơ thể nhiều trạng thái của tuổi thanh xuân. Như vậy, tư tưởng chủ đạo của 5 thức tập Suối nguồn tươi trẻ xuất phát từ phương Đông cũng phù hợp với tinh thần của các nghiên cứu khoa học phương Tây.
Những lợi ích thực tế của Suối nguồn tươi trẻ bao gồm: sinh lực dồi dào; tinh thần minh mẫn, an nhiên, thư thái; cơ bắp săn chắc; ngủ tốt; thở sâu; sức khỏe toàn diện nâng cao, ít ốm vặt; vóc dáng trẻ trung, linh hoạt; giảm cân; cải thiện sinh hoạt vợ chồng. Tuy không đến mức thần diệu, song những kết quả này cũng là rất ấn tượng đối với một bài tập mà bất cứ ai cũng có thể thực hiện chỉ trong 10 phút mỗi ngày.
Dưới đây là bài hướng dẫn luyện tập 5 thức Suối nguổn Tươi trẻ
1. Thức thứ nhất
Đứng thẳng, 2 tay dang ngang bằng vai. Sau đó xoay tròn theo chiều từ trái sang phải cho đến khi cảm thấy hơi chóng mặt.
Lưu ý: Khi mới tập, hầu hết mọi người chỉ xoay được nhiều nhất khoảng 6 lần là cảm thấy chóng mặt. Khi đó, nên ngừng tập, nằm hoặc ngồi nghỉ để cơn chóng mặt qua đi.
Không nên cố gắng quá sức, vì ngay cả những người thể lực tốt và người thường xuyên tập yoga cũng có thể phải mất đến 6 tháng mới xoay được đủ 21 lần.
Một số mẹo giảm chóng mặt, buồn nôn:
- Trước khi tập, không nêên ăn no hoặc dùng đồ uống có cồn. Nên uống một chút nước nóng có thả một lát gừng tươi hoặc một chén trà bạc hà.
- Sau khi tập, nếu thấy chóng mặt nhiều có thể dùng ngón cái bấm huyệt Nội quan trong khoảng 1-2 phút. Huyệt này nằm ở trên nếp gấp khớp cổ tay 2 đốt ngón tay, trong khe giữa gân của 2 cơ nổi rõ khi gấp bàn tay vào cẳng tay và nghiêng bàn tay vào trong.
2. Thức thứ hai
Nằm ngửa, thẳng người trên sàn, 2 tay đặt xuôi theo thân mình, lòng bàn úp, ngón tay chụm lại, đầu các ngón tay của 2 bàn tay hơi hướng vào nhau.
Nâng đầu lên, đồng thời nhấc 2 chân lên cho đến khi tạo thành đường thẳng đứng. Nếu có thể, hãy vươn 2 chân về phía đầu, nhưng vẫn phải giữ 2 đầu gối thẳng.
Sau đó từ từ thả đầu và 2 chân xuống sàn, nghỉ một chút cho các cơ bắp được thư giãn rồi lặp lại thức này.
Lưu ý: Trong một số sách về Suối nguồn tươi trẻ được biên tập lại và
tái bản sau này, người tập được khuyên nên hít vào thật sâu khi nhấc đầu và 2 chân lên, sau đó thở ra toàn bộ khi hạ đầu và chân xuống.
3. Thức thứ ba
Quỳ trên sàn, thân mình thẳng, hai tay buông xuôi, bàn tay đặt vào sau đùi. Ngả đầu và cổ về phía trước càng xa càng tốt, đồng thời đầu cúi xuống sao cho cằm tựa trên ngực.
3. Thức thứ ba
Quỳ trên sàn, thân mình thẳng, hai tay buông xuôi, bàn tay đặt vào sau đùi. Ngả đầu và cổ về phía trước càng xa càng tốt, đồng thời đầu cúi xuống sao cho cằm tựa trên ngực.
Tiếp đó, ngửa ra phía sau càng xa càng tốt, đầu ngả xuống thật thấp. Trở về tư thế ban đầu và tiếp tục lặp lại thức này.
Lưu ý: Trong một số tài liệu, người tập được khuyên nên hít vào thật sâu khi ngửa ra sau và thở ra khi trở về tư thế thẳng người.
Những người bị bệnh về xương khớp không nên cố gắng quá mức khi thực hiện động tác ngửa về sau. Nếu thấy chóng mặt do thiếu oxy não khi động mạch đốt sống bị chèn ép thì không nên ngả đầu quá thấp về phía sau.
4. Thức thứ tư
Ngồi trên sàn, 2 chân duỗi thẳng về phía trước, bàn chân cách nhau khoảng 20cm; 2 tay xuôi theo thân mình, lòng bàn tay úp trên sàn, cạnh mông; đầu hơi cúi sao cho cằm ngã trên ngực.
Tiếp đó, ngã đầu ra sau càng xa càng tốt, rồi nâng thân mình lên trong khi đầu gối gập lại sao cho 2 cẳng chân từ đầu gối trở xuống thẳng đứng, 2 cánh tay cũng thẳng đứng, còn phần thân từ vai đến đầu gối nằm ngang, song song với sàn nhà. Trở về tư thế ngồi và thư giãn một chút trước khi lặp lại các động tác của thức này.
Lưu ý: Trong một số tài liệu, người tập được khuyên nên hít sâu khi nâng người lên và thở ra khi hạ người xuống.
5. Thức thứ năm
Chống 2 tay xuống sàn, bàn tay cách nhau khoảng 60cm, khom người, duỗi 2 chân về phía sau, bàn chân cũng cách nhau 60cm. Đẩy thân mình, đặc biệt là phần hông lên cao nhất có thể, tạo thành hình chữ V úp ngược, trọng lượng cơ thể dồn lên bàn tay và các ngón chân.
Đầu hơi cúi để cằm tựa lên ngực. Sau đó, cong cột sống, hạ thấp thân mình sao cho cơ thể võng xuống. Đồng thời ngóc đầu lên, để nó ngả ra sau càng xa càng tốt. Tiếp tục đẩy hông lên cao để lặp lại thức này.
Lưu ý: Trong một số tài liệu, thức này được hướng dẫn theo trình tự ngược lại. Đầu tiên, chống tay, cong cột sống để cơ thể võng xuống. Sau đó mới nâng hông lên cao để tạo thành chữ V ngược.
Lời dặn quan trọng
Để đạt hiệu quả, nên tập đều đặn, mỗi ngày 21 lần cho một thức. Khi mới bắt đầu, trong tuần lễ thứ nhất, chỉ nên tập mỗi thức 3 lần trong một ngày. Sau đó, cứ mỗi tuần tiếp theo tăng thêm 2 lần tập cho một thức.
Cứ như vậy cho đến tuần thứ 10, bạn sẽ tập đủ 21 lần mỗi thức trong một ngày. Nếu có sức khỏe tốt, bạn sẽ chỉ mất 10 phút mỗi ngày cho cả 5 thức. Khi thư giãn giữa các thức, nên đứng thẳng, tay chống vào hông và thở sâu 1, 2 nhịp.
Sau khi tập, nên lau người bằng khăn ẩm, sau đó lau lại bằng khăn khô. Cũng có thể tắm bằng nước mát hoặc nước ấm. Tuyệt đối không được tắm bằng nước lạnh hoặc lau bằng khăn lạnh, vì như vậy bài tập sẽ mất tác dụng
Để đạt hiệu quả, nên tập đều đặn, mỗi ngày 21 lần cho một thức. Khi mới bắt đầu, trong tuần lễ thứ nhất, chỉ nên tập mỗi thức 3 lần trong một ngày. Sau đó, cứ mỗi tuần tiếp theo tăng thêm 2 lần tập cho một thức.
Cứ như vậy cho đến tuần thứ 10, bạn sẽ tập đủ 21 lần mỗi thức trong một ngày. Nếu có sức khỏe tốt, bạn sẽ chỉ mất 10 phút mỗi ngày cho cả 5 thức. Khi thư giãn giữa các thức, nên đứng thẳng, tay chống vào hông và thở sâu 1, 2 nhịp.
Sau khi tập, nên lau người bằng khăn ẩm, sau đó lau lại bằng khăn khô. Cũng có thể tắm bằng nước mát hoặc nước ấm. Tuyệt đối không được tắm bằng nước lạnh hoặc lau bằng khăn lạnh, vì như vậy bài tập sẽ mất tác dụng
Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013
Sơ lược sự phát triển về khái niệm bệnh
Sơ lược sự phát triển về khái niệm bệnh
Bệnh là do rối loạn các thể dịch đó. Ví dụ: có quá nhiều dịch nhầy ở khắp nơi như ở phổi (sẽ gây viêm, lao), ở ổ bụng (gây cổ chướng), ở ruột (gây ỉa lỏng, lỵ), ở trực tràng (gây trĩ).
Bệnh theo quan niệm y học Đông phương
Trung quốc và các dân tộc chịu ảnh hưởng văn minh Trung quốc
Y học Trung quốc cổ đại chịu ảnh hưởng của triết học, cụ thể là của Dịch học. Các nhà y học Trung quốc đã áp dụng Dịch lý vào trong Y lý vì cho rằng “Thiên địa vạn vật nhất thể”. Cơ thể con người được xem như là một thế giới thu nhỏ (Nhân thân tiểu thiên địa) có liên quan đến các yếu tố nguyên thủy: Âm Dương, ngũ hành.
ĐẠI VŨ TRỤ
|
TIỂU VŨ TRỤ
|
Thái cực
|
Toàn thân
|
Lưỡng nghi
|
Trên -dưới, Trái -phải
|
Tứ tượng, Tứ thời
|
Tứ chi
|
Ngũ hành
|
Ngũ tạng, Ngũ dịch, Ngũ giác quan
|
24 tiết
|
24 đốt xương sống
|
Bát tiết, Bát chính.
|
Bát môn, Kỳ kinh bát mạch.
|
Cửu thiên, Cửu châu
|
Cửu khiếu
|
12 tháng
|
12 đốt khí quản, 12 kinh lạc
|
Sông ngòi
|
Huyết mạch
|
Lục khí
|
Lục phủ, lục kinh
|
360 ngày của 1 năm
|
360 đốt xương
|
Bảng: Tương quan giữa đại và tiểu vũ trụ theo kinh Dịch và Y dịch
Trong đại vũ trụ (cũng như trong cơ thể người) luôn có sự vận hành giữa 2 lực đối kháng: Âm-Dương. Chu Liêm Khê khi giải thích Thái cực đồ thuyết có nói:
"Vô cực là thái cực, thái cực động mà sinh ra dương, động cực rồi tĩnh, tĩnh mà sinh ra âm, tĩnh cực rồi trở lại động, một động một tĩnh làm căn bản và giúp đỡ lẫn nhau, phân âm phân dương, lưỡng nghi lập thành, dương biến âm hợp mà sinh ra thủy, hỏa, mộc, kim, thổ,...”
Khí âm dương luân chuyển biến hóa mà tạo ra ngũ hành, sự sinh khắc của ngũ hành là nguồn gốc của sự chế hóa trong vũ trụ. Hợp với nhau là sinh, là tiếp tục tiến hóa. Trái với nhau là khắc, là hạn chế sự tiến hóa. Trong sự vận hành của khí chất đã có sinh thì phải có khắc, có khắc thì phải có sinh, sinh khắc có mục đích giữ quân bình trong sự sinh hóa của vạn vật. Âm dương có hòa và ngũ hành có bình thì trời đất mới yên mà muôn loài được thành toại, sinh tồn.
Vậy bệnh là do mất sự quân bình âm dương, ngũ hành. Nguyên nhân của sự mất quân bình nầy có thể là nội thương do trạng thái tâm lý thái quá (Thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, lạc, tăng, bi), là ngoại cảm do tiết khí (Lục khí: phong, hàn, thử, thấp, táo, hỏa). Trị liệu bệnh căn cứ vào sự sinh khắc của ngũ hành (Hư: bổ, Thực: tả) để nhằm lập lại sự quân bình âm dương cho cơ thể.
Lý luận âm dương ngũ hành có vẻ mơ hồ, trừu tượng nhưng các thầy thuốc Đông y khi áp dụng vào trong điều trị bệnh đã thu được kết quả rất khả quan, không thể phủ nhận.
Ấn Độ và các dân tộc chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Độ
Văn minh Ấn Độ cổ đại được phản ảnh trong bộ kinh Veda (được viết khoảng thế kỷ 15 đến thế kỷ thứ 7 trước CN) gồm 4 tập: Rig Veda (tụng niệm) trong đó có đề cập nhiều kiến thức y học, Sama Veda (ca vịnh), Ayur Veda (tế tự) và Atharva Veda (phù chú ma thuật) trong đó có bàn nhiều đến phẫu thuật.
Y học Ấn độ cổ đại quan niệm sức khỏe hoặc bệnh tật là sự kết hợp hài hòa hoặc sự rối loạn của 3 yếu tố cấu tạo: Khí, dịch nhầy và mật, đồng thời chịu ảnh hưởng của thời tiết (mưa, nắng, bão) và thời gian (ngày, tháng, năm). Về các lãnh vực khác như giải phẫu học và phẫu thuật, dược học, triệu chứng học, vệ sinh và y học cộng đồng,... có nhiều tiến bộ ảnh hưởng đến các nền y học cổ đại Hy Lạp, La Mã và có tác động tích cực đến nền y dược học Tây phương sau nầy.
Tuy nhiên cần nói thêm rằng y học Ấn Độ cổ đại chịu chi phối mạnh mẽ của triết thuyết Phật giáo, cho bệnh chỉ là một mắc xích trong vòng luân hồi sanh tử do nghiệp (Karma) tạo tác. Sở dĩ con người tạo nghiệp là do vô minh và dục, vì vậy điều trị khỏi bệnh không quan trọng bằng diệt dục để khỏi tạo nghiệp. Nghiệp mỗi khi không còn tạo tác, luân hồi sẽ dứt, bệnh theo đó cũng sẽ tiêu biến đi. Có lẽ triết thuyết nầy đã có ít nhiều tác dụng tiêu cực đến sự phát triển của nền y học Ấn.
Bệnh theo quan niệm y học Tây phương
Học thuyết thể dịch của Hippocrate
Chịu ảnh hưởng những luận thuyết của Empedocles (thầy thuốc kiêm triết gia, 504-433 trước CN) coi nền tảng vật chất của thế giới gồm 4 yếu tố (đất, nước, lửa, không khí) tạo nên những biến đổi trong thiên nhiên (ấm, nóng, lạnh, khô), các yếu tố đó vừa kết hợp với nhau vừa đối kháng với nhau. Hippocrate (460-377 trước CN) cũng quan niệm hoạt động sống của cơ thể dựa trên 4 thể dịch: máu ở tim cũng khô như không khí, chất nhầy ở não cũng lạnh như nước, mật vàng ở gan cũng nóng như lửa, mật đen ở lách cũng ẩm như đất. Theo ông, sự tác động qua lại của các thể dịch đó quyết định không chỉ tính tình của mỗi con người (nóng nảy, trầm tĩnh, thờ ơ, buồn phiền) mà còn là nền tảng của sức khỏe và nguyên nhân của bệnh tật.
Bệnh là do rối loạn các thể dịch đó. Ví dụ: có quá nhiều dịch nhầy ở khắp nơi như ở phổi (sẽ gây viêm, lao), ở ổ bụng (gây cổ chướng), ở ruột (gây ỉa lỏng, lỵ), ở trực tràng (gây trĩ),... Nguyên lý điều trị bệnh là phục hồi lại cân bằng cho cơ thể bằng cách sử dụng các thuốc có những đặc tính của các dịch (thuốc mát, thuốc nóng, thuốc làm khô, thuốc làm ướt).
Quan niệm nầy mặc dù thiếu cơ sở khoa học nhưng đã đặt một nền tảng vật chất cho sự hiểu biết, khác xa với những quan niệm siêu hình thần bí vốn thịnh hành trong thời đại đó.
Thuyết hóa học
Trong đêm dài Trung cổ, y học và các ngành khoa học khác không tiến bộ thậm chí còn đi thụt lùi do sự thống trị của tôn giáo. Về cuối thời kỳ nầy, Paracelcius (1493-1541) một người thầy thuốc Đức nổi tiếng, nêu lên quan niệm cho rằng:
Lưu huỳnh, nguyên tố khí, biểu hiện sức mạnh của linh hồn.
Thủy ngân, nguyên tố lỏng, biểu hiện các lực của trí tuệ.
Các muối, cặn của chất đặc, biểu hiện nguyên lý của vật chất.
Ba chất đó nối con người với vũ trụ và qua chúng, con người tham gia vào chuyển hóa chung của thiên nhiên. Bệnh là hậu quả của những rối loạn cân bằng các chất nói trên.
Jean Baptiste van Helmont (1577-1644) và Sylvius (1614-1672) cho rằng mọi quá trình sinh lý trong cơ thể đều do hoạt động của các enzyme đặc hiệu khác nhau. Bệnh là một rối loạn hóa học enzyme trong cơ thể.
Khái niệm hóa học về bệnh sang thế kỷ XX nhờ những tiến bộ trong ngành hóa và hóa sinh nên có nhiều thay đổi. Ngưởi ta ngày càng thấy rõ tính chất tương đối ổn định của các thành phần hóa học trong cơ thể. Hans Seley khi nghiên cứu về Stress đã đưa ra quan niệm bệnh là do rối loạn khả năng thích nghi của cơ thể (rối loạn tình trạng đối kháng giữa 2 loại hormone được tiết ra khi có stress. Ví dụ giữa mineralocorticoidsvà glucocorticoids).
Linus Pauling phát triển khái niệm nầy bằng cách đưa ra danh từ bệnh lý phân tử để chỉ những bệnh có sai sót trong cấu trúc phân tử của các chất sinh học.
Thuyết cơ học
Trong thời kỳ Phục hưng, sự phát triển vượt bậc của các môn khoa học như toán học, vật lý học,... đã dẫn đến một khái niệm mới về bệnh.
Descartes (1596-1650) xem cơ thể con người như một bộ máy, quan niệm nầy được những người theo thuyết Y Vật lý (Iatrophysic) tán thành vì họ nhận thấy mọi hoạt động của cơ thể động vật đều dựa trên nền tảng hoàn toàn cơ giới. Ví dụ: Hoạt động của các cơ, xương như tác dụng của các lực lên trên những đòn bẩy. Hoạt động của tim và mạch máu không khác hoạt động của hệ thống bơm và các ống dẫn. Hoạt động chuyển hóa là một chuỗi các phản ứng hóa học nhằm đốt cháy thức ăn cung cấp năng lượng cho cơ thể. Do vậy, cơ thể bị bệnh cũng giống như một cỗ máy bị hỏng: “Cơ thể sống khác biệt với cơ thể chết như chiếc đồng hồ đang chạy khác biệt với những bộ phận đồng hồ bị tháo rời”.
Schroedinger (1887-1961) thì cho rằng sự khác biệt giữa những sinh vật và những vật không phải sinh vật chỉ là sự khác biệt giữa một quá trình phức tạp với một quá trình đơn giản mà thôi. Khái niệm cơ học nầy hiện nay còn được thấy trong sự phát triển của môn phỏng sinh học (Bionic) và môn điều khiển học (Cybernetic).
Thuyết tế bào
Thế kỷ XVIII là thời kỳ phát triển cao độ của môn hình thái vi thể (tổ chức học, bào thai học, giải phẫu bệnh) lại có thêm những thành tựu về quang học (phát minh kính hiển vi), về hóa học (phát minh thuốc nhuộm) nên đã thu được những thành tựu đáng kể. Phương pháp giải phẫu lâm sàng đã giúp cho việc so sánh bệnh cảnh lâm sàng với những thương tổn thấy được khi mổ tử thi dẫn đến khái niệm giải phẫu cục bộ về bệnh. Khái niệm nầy cho rằng bệnh có liên quan đến những thương tổn đầu tiên ở các cơ quan, bộ phận, ngăn cản cơ quan, bộ phận đó hoạt động. Morgani (1682-1771), Bichat (1771-1802), Rokitanski (1804-1878) qua kết quả những công trình giải phẫu đại thể, vi thể đã làm phát triển mạnh mẽ quan niệm bệnh học nầy.
Vào cuối thế kỷ XIX, thuyết nầy đạt đỉnh cao với công trình “Bệnh học tế bào” của Wirchov(1821-1902). Trong cuốn sách nầy ông đã kết luận rằng:
" Đời sống của cơ thể là tổng số đời sống của những tế bào riêng lẻ đã hợp nhất trong cơ thể đó...Nơi diễn tiến các quá trình bệnh chính là bản thân tế bào và mô kế cận...Sự hoạt động không bình thường của tế bào là nguồn gốc của bệnh tật...Tôi chắc chắn rằng không một thầy thuốc nào có thể hiểu biết đầy đủ các quá trình bệnh lý nếu họ không cố gắng xác nhận nơi đã xảy ra bệnh tật... Cuối cùng mọi trường hợp bệnh đều dẫn ta tới nguyên ủy: tế bào. Tế bào là cơ sở vật chất, là hòn đá tảng của lâu đài y học...”. Wirchov cũng là người đã nêu lên một định đề nổi tiếng “Mỗi tế bào đều sinh ra từ một tế bào” (Omnis cellulae cellula).
Armand Trousseau (1801-1867) nhà lâm sàng học người Pháp nhận xét:
"Bệnh học tế bào đã quên mất con người mà chỉ chú ý đến những tế bào nhỏ bé, do đó đã bị chìm lấp trong muôn vàn những giá trị nhỏ bé”
Thuyết thần kinh luận
Trường phái y học Nga với những công trình của Setchenov (1829-1905), Botkin, Pavlov (1849-1936) đề ra thuyết thần kinh về bệnh. Theo thuyết nầy cho rằng hoạt động phản xạ của hệ thần kinh giúp cho việc bảo tồn sự hoạt động và sự toàn vẹn của cơ thể giữa những điều kiện luôn luôn thay đổi của môi trường sống. Sự kết hợp chặt chẽ của hoạt động vỏ não và dưới vỏ não, giữa hệ thần kinh và hệ nội tiết có tác dụng điều hòa chính xác và kịp thời mọi hoạt động của con người, bảo đảm mối tương quan thống nhất giữa con người và ngoại cảnh. Bệnh là do rối loạn hoạt động của phản xạ của hệ thần kinh, rối loạn mối tương quan giữa những khu vực khác nhau của hệ thần kinh là cơ chế phát triển của bệnh.
Thuyết thần kinh đã tuyệt đối hóa vai trò của vỏ não, làm cho thuyết nầy trở nên phiến diện và làm cản trở cho những nghiên cứu phát triển các ngành học khác như nội tiết, sinh hóa thần kinh, hệ thần kinh thực vật,...
Thuyết phân tâm học
Sigmund Freud (1856-1939), thầy thuốc nổi tiếng người Áo cho rằng những hiện tượng kinh nghiệm thu nhận trong cuộc sống của con người chỉ trở thành ý thức (conscience) khi nó phù hợp với cái máy lọc xã hội (gồm những qui định của xã hội: ngôn ngữ, luân lý, và những đặc tính của xã hội: cấm kỵ). Những hiện tượng kinh nghiệm sống không phù hợp sẽ không được chuyển thành ý thức và sẽ bị dồn ép (pression) vào trong tiềm thức (insconcience) (còn gọi là vô thức) "Cá nhân không thể tự cho phép mình nhận thức những tư tưởng hay tình cảm khác với những khuôn mẫu của nền văn hóa mà hắn sống, do đó hắn buộc phải dồn ép chúng" (E. Fromm).
Những tư tưởng hay tình cảm bị dồn ép vào trong tiềm thức đó không bị mất đi mà vẫn tồn tại và có năng lực sống riêng (Freud gọi là Libido), chúng tìm cách biểu hiện ra bên ngoài bằng:
Những hành vi sai lạc như: sự lỡ lời (viết sai, đọc sai, nghe nhầm), sự quên (tên người, chữ, dự định, cảm giác) hoặc sự lầm lẫn (đánh mất đồ vật, không tìm lại được đồ vật đã cất). Những hành vi sai lạc thực sự là những hành vi hoàn toàn đúng đắn, chỉ xuất hiện với mục đích thay thế cho hành vi mà người ta muốn làm hoặc đang chờ đợi. Trong cuốn Phân tâm học nhập môn, Freud nói: “Sự dồn ép một ý muốn nói một điều gì chính là điều kiện cần thiết cho sự phát sinh của một sự lỡ lời”.
Những giấc mơ. Cái tôi trong giấc mơ theo Freud, đã rũ bỏ được hết những ràng buộc về luân lý, thỏa mãn mọi sự đòi hỏi của bản năng tình dục, của bản năng luôn luôn bị nền giáo dục cấm đoán, những bản năng chống lại mọi sự kìm kẹp của luân lý.
Những tài năng trong thi ca, âm nhạc, hội họa,...
Những chứng bệnh tâm thần kinh, thậm chí cả một số bệnh thực thể.
Vậy bệnh là sản phẩm của một sự dồn ép, do đó trị bệnh là phải tìmcách giải phóng cho những dồn ép đó (dépression) bằng phương pháp phân tâm học (psychanalyse).
Đại cương sinh lý bệnh lão hóa
Đại cương sinh lý bệnh lão hóa
Tăng nhạy cảm với bệnh tật, tăng nguy cơ tử vong: hầu hết cơ thể già mang một hoặc nhiều bệnh và có tỷ lệ tử vong cao nhất so với mọi giai đoạn phát triển trước đó.Hiện nay tuổi già đang được nhiều người quan tâm nghiên cứu vì tuổi thọ ngày càng cao, số người già ngày càng đông.
Việc phân chia già trẻ theo tuổi không phản ánh chính xác quá trình sinh học. Theo Tổ chức Y tế Thế giới thì sự sắp xếp các lứa tuổi như sau:
45 tuổi đến 59 tuổi: Người trung niên.
60 tuổi đến 74 tuổi: Người có tuổi.
75 tuổi đến 90 tuổi: Người già.
91 tuổi trở đi: người già sống lâu.
Từ đầu thế kỷ cho đến nay, người ta chứng kiến sự tăng nhanh của tuổi thọ trung bình và của số người già ở tất cả các nước. Ở nước ta, tuy tỷ lệ người già so với dân số cả nước chưa cao như ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ, do số trẻ em rất nhiều và tỷ lệ sinh đẻ vẫn còn cao, nhưng tuổi thọ cũng đã tăng nhiều và số người già ngày càng đông.
Tuổi già biểu hiện bằng hình thái bên ngoài như tóc bạc, mắt mờ, tai lãng, da đồi mồi,.vv. Về mặt sinh học, tuổi già biểu hiện bằng hai đặc điểm sau:
Suy giảm chức năng các cơ quan và tổ chức: giảm khả năng bù trừ, giảm thích nghi với sự thay đổi của môi trường chung quanh, ví dụ: thích nghi với thời tiết nóng lạnh, tác động tâm lý.v.v.
Tăng nhạy cảm với bệnh tật, tăng nguy cơ tử vong: hầu hết cơ thể già mang một hoặc nhiều bệnh và có tỷ lệ tử vong cao nhất so với mọi giai đoạn phát triển trước đó.
Từ những đặc điểm trên, các khoa học nghiên cứu về tuổi già ra đời gồm:
Lão học (gerontology): Ngành sinh học nghiên cứu về cơ chế, quá trình tiến triển của lão hoá, các biện pháp chống lại lão hoá, cải thiện và kéo dài cuộc sống chất lượng ở tuổi già.
Lão bệnh học (geriatry): Ngành y học nghiên cứu về các bệnh lý tuổi già. Thực tế rất khó phân biệt bệnh do già và bệnh dễ mắc phải ở người già.
Quá trình bệnh lý
Quá trình bệnh lý
Thời kỳ tiệm phát có thể kéo dài mấy ngày và nếu sức đề kháng của cở thể mạnh thì bệnh cũng có thể kết thúc trong giai đoạn nầy, ta gọi là bệnh ở thể sẩy.
Thời kỳ ủ bệnh
Thời kỳ này bắt đầu từ khi nhân tố gây bệnh tác động lên cơ thể cho đến khi các triệu chứng bệnh lý đầu tiên xuất hiện. Trong thời kỳ này diễn ra cuộc đấu tranh tích cực giữa tác nhân gây bệnh và cơ thể sống, nhưng do khả năng thích ứng, phòng ngự của cơ thể còn mạnh nên chưa phát sinh rối loạn.
Trong thời kỳ ủ bệnh, nếu sức đề kháng của cơ thể mạnh, tiêu diệt được yếu tố gây bệnh thì bệnh sẽ không phát sinh nữa. Thời kỳ ủ bệnh dài hay ngắn là tùy theo tứng loại bệnh, từ chỉ trong nháy mắt (dòng điện mạnh), đến vài phút (rắn độc cắn), đến vài ngày (sởi), hoặc vài tháng (bệnh dại), thậm chí có bệnh thời gian ủ bệnh đến vài năm (bệnh phong có thể đến 20 năm),...
Thời kỳ ủ bệnh có ý nghĩa quan trọng trong công tác dự phòng và điều trị. Trong thời kỳ này do khả năng phòng ngự sinh lý tốt, khả năng thích nghi của cơ thể còn rộng nên chưa có biểu hiện rối loạn hoạt động ra bên ngoài. Rèn luyện là một phương pháp làm cho lề thích nghi đó rộng thêm ra và làm cho bệnh khó phát triển. Cũng trong thời kỳ nầy, có thể tiến hành công tác kiểm dịch, cách ly và tiêm chủng dự phòng. Nếu bệnh kết thúc trong giai đoạn nầy thì gọi là bệnh ở thể ẩn.
Thời kỳ tiệm phát
Thời kỳ tiệm phát bắt đầu từ khi xuất hiện triệu chứng bệnh lý đầu tiên cho đến khi bệnh toàn phát. Trong thời kỳ nầy, các triệu chứng chính chưa xuất hiện xong do khả năng thích ứng giảm, tính phản ứng của cơ thể đã thay đổi nên bắt đầu một số biểu hiện rối loạn nhẹ: bệnh nhân cảm thấy uể oải, khó chịu, kém ăn, sốt nhẹ,,...
Trong thời kỳ tiệm phát, hoạt động chống đỡ của cơ thể được tăng cường như tăng sản xuất kháng thể, tăng hiện tượng thực bào, thần kinh thường bị ức chế (ức chế bảo vệ) nhằm làm cho tế bào khỏi bị suy kiệt.
Thời kỳ tiệm phát có thể kéo dài mấy ngày và nếu sức đề kháng của cở thể mạnh thì bệnh cũng có thể kết thúc trong giai đoạn nầy, ta gọi là bệnh ở thể sẩy.
Thời kỳ toàn phát
Thời kỳ này các triệu chứng xuất hiện rõ rệt, đầy đủ. Cơ thể đã ở vào một trạng thái hoàn toàn mới và một số dấu hiệu chứng tỏ sự thích ứng với hoàn cảnh mới đó như tăng chuyển hóa đẻ tăng cung cấp năng lượng, để hàn gắn tổn thương, tăng hô hấp, tuần hoàn để đáp ứng nhu cầu của cơ thể bị bệnh.
Thời kỳ nầy ngắn dài tùy loại bệnh. Nhiều bệnh, nhất là bệnh nhiễm trùng cấp tính thường có một thời kỳ toàn phát nhất định: 9 ngày (viêm phổi), 8-10 ngày (sởi), 13-16 ngày (sốt phát ban),... Trái lại, một số bệnh thường là mạn tính, không có kỳ hạn nhất định (sốt rét, phong, giang mai). Dựa vào tính chất, thời gian diễn tiến của bệnh, người ta phân biệt 3 thể:
Thể cấp tính, kéo dài từ vài ngày đến vài tuần, triệu chứng rõ rệt, dễ phát sinh biến chứng, dễ tử vong.
Thể bán cấp, kéo dài từ 3 đến 6 tuần, triệu chứng khá rõ song kém phần ác liệt hơn thể cấp.
Thể mạn tính, kéo dài trên 6 tuần, diễn tiến từ từ, có thể là tiệm phát hay kế tục tình trạng cấp. Triệu chứng có thể rõ song thường lờ mờ, chung chung, khó chẩn đoán. Nếu để lâu không phát hiện sẽ gây hậu quả tai hại, nghiêm trọng.
Thời kỳ toàn phát tùy thuộc nhiều yếu tố: sức đề kháng của cơ thể, bản chất của yếu tố gây bệnh, độc lực của nó, thời gian tác động và cách thức điều trị của người thầy thuốc.
Thời kỳ kết thúc
Thời kỳ này có thể nhanh (viêm phổi) hoặc kéo dài (thương hàn). Bệnh thường kết thúc dưới 4 hình thức:
Khỏi hoàn toàn: khi sự thăng bằng của cơ thể với ngoại môi được khôi phục lại, toàn bộ triệu chứng bệnh lý sẽ biến mất, cấu tạo và chức phận của các cơ quan, tổ chức hồi phục hoàn toàn. Sau khi khỏi, phản ứng tính của cơ thể sẽ trở lại như giai đoạn trước khi bị bệnh nghĩa là lại vẫn có thể mắc bệnh như vậy một lần khác nữa. Nhưng đối với các bệnh nhiễm trùng thì thường phản ứng tính có thể thay đổi như được miễn dịch với một số bệnh thương hàn, đậu mùa, sởi,...
Khỏi không hoàn toàn: Khi các triệu chứng chủ yếu đã hết nhưng cấu tạo và chức phận của cơ quan tổ chức vẫn còn in sâu dấu tích bệnh lý, không hoàn toàn hồi phục lại như xưa. Một bộ phận nào đó có thể bị loại khỏi hoạt động chung của cơ thể như cứng khớp sau khi khỏi lao khớp, hẹp van tim sau khi khỏi viêm nội tâm mạch,...
Mắc bệnh lại: Khi yếu tố gây bệnh lại có tác dụng trên cơ thể đã bị bệnh đó rồi. Mắc bệnh lại có thể là tái phát khi mắc lại ngay sau khi vừa kết thúc bệnh (lao vừa điều trị khỏi nhưng do lao lực, kém dinh dưỡng,...nên phát bệnh lại). Mắc bệnh lại có thể là tái nhiễm nghĩa là mắc lại bệnh cũ sau khi khỏi đã lâu (sốt rét đã điều trị khỏi nay tái nhiễm).
Chết: Hay quá trình tử vong.
Các thuyết giải thích sự lão hoá
Các thuyết giải thích sự lão hoá
Tích luỹ các phân tử LDL bị oxy hoá bởi các gốc tự do, bị thu hút bởi các đại thực bào, tạo nên các tế bào bọt (foam cell) dẫn đến xơ vữa động mạch.Có nhiều cách giải thích sự lão hoá. Đầu thế kỷ 20 khi vi khuẩn được phát hiện và vi khuẩn được coi là nguyên nhân duy nhất của bệnh tật thì có giả thuyết cho rằng già là hậu quả của nhiều lần nhiễm khuẩn. Tuy nhiên, các thuyết khoa học dựa vào những thành tựu mới nhất của các nghiên cứu sinh học và y học xuất hiện gần đây để giải thích sự lão hoá.
Các thuyết từng được ủng hộ
Thuyết thảm họa do sai sót (catatrophic error)
Giả thuyết này do Orgel đề xướng năm 1963 dựa vào vai trò của tế bào. Khi diễn ra sự sao chép vào phiên bản DNA, RNA trong tế bào thì tần suất sai sót có thể xảy ra bao gồm sự thay đổi về điện thế, sự liên kết nhóm methyl vào RNA, sự kết hợp sai lầm ở các acid amin trong tổng hợp các protein, sản xuất các enzym kém đặc hiệu hay không hiệu quả trong các tổ chức. Tất cả sự thay đổi các cấu trúc của hệ thống sản xuất năng lượng có thể gián đoạn sản xuất năng lượng ATP và tiêu thụ oxy. Các sai sót lúc đầu có thể rất nhỏ nhưng sẽ dẫn đến thảm hoạ về sau: đó là sự lão hoá và cái chết.
Thuyết cái giá của sự sống (Pearl,1928)
Dựa trên nhận xét về các động vật có vú nếu tầm vóc càng nhỏ thì chuyển hoá cơ bản càng mạnh và càng có tuổi thọ thấp. Từ đó suy luận mỗi cá thể của loài chỉ được sử dụng một lượng thức ăn phù hợp với trọng lượng cơ thể. Nếu phải chuyển hoá mạnh mẽ (ăn nhiều) thì sẽ mau chóng tiêu thụ hết số thức ăn cho phép. Thực nghiệm trên chuột với những chế độ ăn khác nhau về calo, cho thấy khẩu phần ăn càng hạn chế calo (tuy nhiên vẫn bảo đảm nhu cầu tối thiểu của cơ thể) thì chuột càng sống lâu.
Đột biến sinh dưỡng (somatic mutation)
Thuyết đột biến sinh dưỡng dựa căn bản trên giả thuyết những tế bào sinh dưỡng thường xuyên chịu sự đột biến mặc dầu với tần suất rất thấp. Sự đột biến có thể tự nhiên hoặc do môi trường bên ngoài tác động, kích thích sự biến đổi chức năng và sau cùng là làm tổn thương cấu trúc tổ chức và cơ quan. Sự đột biến sinh dưỡng được xem như cơ chế căn bản của sự lão hoá, chúng xuất hiện ngẫu nhiên, tuỳ thuộc vào thời gian và vị trí, có lẽ xảy ra như nhau trong các đoạn gen.
Thuyết thần kinh - nội tiết
Testosterone kích thích tổng hợp protein cơ, giảm giáng hoá và cải thiện tình trạng tái sử dụng các acid amin để duy trì sự cân bằng khối cơ ở người trẻ. Tuy nhiên, giả thuyết này không giải thích đầy đủ những thay đổi ở khối mỡ, số lượng nhân tế bào cơ, số lượng tế bào vệ tinh ở khối cơ người cao tuổi. Người ta cho rằng có lẽ testosteron khởi động những tế bào gốc đa năng thành những dòng tế bào cơ và ức chế sự biệt hoá của chúng để thành những tế bào mỡ.
Rối loạn về các tuyến nội tiết biểu hiện rõ nhất trong thời kỳ mãn kinh. Sự rối loạn xảy ra ở tuyến sinh dục, tuyến yên với rất nhiều hormon khác nhau (ACTH, TSH, FSH.v.v.) cho những bệnh cảnh khác nhau, gặp ở lứa tuổi già; nhưng không thể xem đó là nguồn gốc chung của sự già nua.
Thuyết sai lầm của hệ miễn dịch (Makinodan, 1970)
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự thay đổi của hệ thống đáp ứng miễn dịch là nguyên nhân xuất hiện các bệnh lý ở tuổi già từ lứa tuổi 30 và có vai trò quyết định sự lão hoá. Tuyến ức teo đi ở lứa tuổi này nhưng sự lão hoá không luôn luôn kèm theo sự giảm tế bào lympho T cũng như đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Tuy nhiên thực nghiệm trên chuột cắt tuyến ức có vẻ như những điều kiện trên là liên quan với tuyến ức và tinh chất tuyến ức: chuột xuất hiện bệnh lupus ban đỏ và già sớm, nếu ghép tuyến ức trở lại thì bệnh cải thiện.
Burnet đưa ra giả thuyết về sự xuất hiện bệnh tự miễn là do sự đột biến ở mức tế bào. Phân tử MHC kiểm soát sự tương tác giữa tế bào lympho B và T, tất cả những hiên tượng tăng hay kìm hãm đáp ứng miễn dịch được kiểm soát bởi cơ chế gen. Sự hiện diện của ung thư hay bệnh tự miễn chỉ là hậu quả của sự thay đổi nào đó của “ sự báo thức tuyến ức” dẫn đến sai lạc gen làm suy giảm miễn dịch.
Các thuyết còn tồn tại hiện nay
Thuyết các gốc tự do
Thuyết gốc tự do được đề xuất từ năm 1965 do Harman và đang được quan tâm hiện nay.
Tác dụng của các gốc tự do
Các gốc tự do là những phân tử rất không ổn định do mang điện tử tự do ở vòng ngoài do vậy chúng liên kết rất mạnh mẽ. Thuật ngữ các dạng oxy hoạt động (reactive oxygen specice) mô tả các gốc tự do có oxy như O2.-, OH. và các dẫn xuất oxy khác như hydrogen peroxide (H2O2) và acid hypochloric (HOCl). Chúng có khuynh hướng oxy hoá các phân tử chung quanh gây tổn thương không hồi phục, nhất là chức năng phosphoryl hoá. Khi tấn công vào tế bào, các gốc tự do có thể gây ra:
Thoái hoá protein.
Peroxy hoá lipid dẫn đến phá huỷ màng lipid tế bào.
Tấn công vào DNA tách sợi kép DNA và dẫn đến đọc sai các cặp bazơ.
Tích luỹ các phân tử LDL bị oxy hoá bởi các gốc tự do, bị thu hút bởi các đại thực bào, tạo nên các tế bào bọt (foam cell) dẫn đến xơ vữa động mạch.
Sự tấn công của các gốc tự do có thể hoạt hoá một số enzym, ví dụ các enzym protein kinase.
Nguồn gốc các gốc tự do và các oxy hoạt động: các gốc tự do có thể được sản xuất từ các nguồn sau đây
Phản ứng oxy hoá khử có oxy, xảy ra một phần như là của sự chuyển hoá bình thường.
Tế bào thực bào hoạt động trong phản ứng viêm kiểm soát tạo thành HOCl và O2.
Đôi khi sinh ra do đáp ứng đối với sự tiếp xúc với bức xạ ion hoá, tia tử ngoại, các chất xenobiotic, thuốc, ô nhiễm môi trường, khói thuốc lá, quá tải oxy, luyện tập quá sức, thiếu máu cục bộ.
Các hệ thống chống oxy hoá của cơ thể
Cơ chế phòng ngừa: có tác dụng ngăn cản sự hình thành các dạng oxy hoạt động mới, ví dụ ceruloplasmin (Cu), methllothionin (Cu), albumin (Cu), transferin (Fe), myoglobin (Fe).
Có tác dụng thu dọn: có tác dụng loại bỏ các dạng oxy hoạt động vừa mới được hình thành, như vậy ngăn ngừa các phản ứng dây chuyền của các gốc tự do.
Các enzym chống oxy hoá (antioxydant enzyme): superoxid dismutase (SOD), glutathion peroxidase (GPx), glutathion reductase (GR), catalase (CAT), và các metalloenzyme. Các enzym này có tác dụng thu dọn gốc tự do, xúc tác các phản ứng hoá học để biến gốc tự do thành không độc.
Các phân tử khác: glutathion, vitamin C, vitamin E, bilirubin, acid uric, các carotenoid, và các flavonoid.
Các enzym sửa chữa: có tác dụng sửa chữa hay loại bỏ các phân tử bị tổn thương bởi các gốc tự do hay dạng oxy hoạt động. Các enzym này như các enzym sửa chữa DNA, methionin reductase.
Vai trò của các gốc tự do và sự lão hoá
Một số nghiên cứu đã cho thấy có sự liên quan giữa các phản ứng chuổi của gốc tự do đến quá trình già. Sự sản sinh các gốc tự do có hoạt tính cao gây nên tổn thương ngẫu nhiên đối với DNA, RNA, enzym, protein, các acid béo không bão hoà, phospholipid màng. Các tổn thương này tích luỹ dần, cuối cùng dẫn đến sự chết tế bào. Các phản ứng này có thể giảm đi bằng cách tăng cường các chất có khả năng chống oxy hoá trong thứa ăn như các loại rau, hoa quả hoặc uống thêm các vitamin C, E, β caroten. Da có những enzym chống lại sự oxy hoá tuy nhiên hoạt độ các enzym này bị giảm do các stress oxy và tuổi già.
Thuyết về sự tích luỹ của các sản phẩm thải (thuyết glycosyl hoá)
Giả thuyết về ngẫu nhiên đã được đưa ra đầu tiên bởi Bjorksten. Nó dựa trên nhiều đại phân tử (protein và axit nhân) có thể mất dần dần các hoạt tính chuyển hoá do hiện diện các liên kết cộng hoá trị giữa phân tử này và phân tử kia. Sự tồn tại của giả thuyết về liên kết lưới (crossing link) đã tạo tiền đề cho những nghiên cứu trên tổ chức liên kết, có thể coi là mô hình nghiên cứu những biến đổi trong quá trình già. Chất protid cơ bản ở đây là collagen. Collagen phân bố dưới dạng sợi ở khắp cơ thể: gân, bì, xương.v.v., đa số collagen ở người già bị glycosyl hoá tỷ lệ tăng dần theo tuổi và giảm rõ rệt với chế độ ăn hạn chế calo. Sự gia tăng liên kết chéo theo với tuổi dẫn đến sự tương ứng các đại phân tử bị thoái hoá không trọn vẹn hay những sản phẩm tích luỹ trong tế bào đóng góp vào nguyên nhân chính của sự lão hoá.
Thuyết về di truyền học (thuyết tiến hoá và chọn lọc)
Khởi đầu là Medawar và Haldane (1957), sau được nhiều người kế tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển thành 2 quan niệm:
Quá trình lão hoá có cơ chế nội sinh
Thậm chí còn được chương trình hoá từ trước nhằm loại trừ các cơ chế đã hết sinh sản và thích nghi thay thế bởi thế hệ mới dễ dàng chịu sự chọn lọc tự nhiên, do đó tạo ra sự tiến hoá của loài.
Thí nghiệm của Hayflick và Morehead (1961).
Cơ quan động vật có xương sống gồm hai loại tế bào: (1) tế bào đổi mới được (còn gọi là tế bào liên gián phân), ví dụ như tế bào biểu mô; (2) tế bào không đổi mới được (còn gọi là tế bào hậu gián phân), ví dụ như tế bào thần kinh và cơ trơn. Như vậy, mọi vật có xương sống sau khi sinh ra có một số vốn nhất định về các tế bào hậu gián phân. Các tế bào này mất dần trong quá trình sinh vật tồn tại, không có gì thay thế được. Nhưng trước khi biến hẳn thì các tế bào này sẽ bị ứ đọng “chất cặn bả” như lipofusin.
Đối với tế bào liên gián phân, năm 1961 Hayflick và Morehead đã chứng minh là những tế bào song bội (diploide fibroblasts) ở người chỉ có khả năng tăng sinh hạn chế trong môi trường nuôi cấy. Chỉ có những tế bào bất thường có hơn 46 nhiễm sắc thể là có khả năng phân chia mãi mãi như kiểu tế bào ung thư. Ngoài ra, ông còn chứng minh sự nghịch biến giữa tuổi của vật cho và khả năng sống lâu của tế bào nuôi cấy. Mỗi năm sống của người cho tương ứng mất 0,2 lần nhân đôi tế bào. Khả năng phân chia của nguyên bào sợi giảm rõ rệt trong bệnh “lùn già” và hội chứng Werner phản ánh tình trạng già trước tuổi và đáng chú ý là xuất hiện những sự thay đổi thoái hoá trước trưởng thành, giảm đáng kể khả năng phân chia tế bào.
Quan niệm cho rằng lão hoá có vai trò của môi trường ngoại cảnh
Nếu một cá thể không chết vì già, ắt chết do mọi nguyên cớ khác (tai biến lúc đẻ, do nhiễm khuẩn, thiếu thức ăn, cạnh tranh sinh tồn với loài khác.v.v.). Đến một thời điểm nào đó, số cá thể trong loài sẽ cân bằng và ổn định. Có nhiều gen có lợi cho cá thể lúc trẻ nhưng có hại khi về già như gen giúp tế bào phân triển mạnh (giúp cá thể mau lớn) sẽ trở thành gen sinh ung thư: chúng được gọi là gen gây già do cơ hội, dù trước đây chúng có ích. Mặt khác, do đột biến sẽ xuất hiện các gen hoàn tòan bất lợi, vậy thì sự già và cái chết sẽ giúp cá thể tránh được sự bất lợi đó. Như vậy, quan điểm tiến hoá dự kiến trước quá trình lão hoá chỉ là một phần tiếp tục trong quy trình phát triển hữu cơ sinh vật: tiếp theo giai đoạn tạo phôi, dậy thì, trưởng thành. Nguy cơ chết tăng theo thời gian do hậu quả tất yếu của:
Tồn tại sự chọn lọc cao đối với những gen mà tác dụng có lợi phát huy sớm; dù rằng về sau gen đó cũng trở thành có hại (gen “gây già” cơ hội).
Giảm áp lực chọn lọc nhằm chống lại các gen có hại thể hiện vào giai đoạn muộn (gen “gây già” thật sự)
Nói cách khác, quan niệm thứ hai thì chính quá trình chọn lọc để tiến hoá đã tạo ra sự lão hoá, chứ không phải sự loại trừ cơ thể già giúp tiến hoá.
Quan niệm khoa học về bệnh nguyên
Quan niệm khoa học về bệnh nguyên
Nguyên nhân quyết định tính đặc hiệu của bệnh. Nguyên nhân và những điều kiện nhất định gây nên một bệnh gọi chung là các yếu tố bệnh nguyên.
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và điều kiện gây bệnh
Nguyên nhân quyết định, điều kiện phát huy tác dụng của nguyên nhân
Không có nguyên nhân thì bệnh không thể phát sinh, có nguyên nhân nhưng thiếu điều kiện thì bệnh chưa phát sinh được.
Ví dụ bệnh lao chỉ xuất hiện khi có sự hiện diện của vi trùng Koch, nhưng sự hiện diện của vi trùng Koch chưa đủ để gây ra bệnh nếu thiếu các điều kiện như suy giảm sức đề kháng của cơ thể, suy dưỡng,...
Nguyên nhân quyết định tính đặc hiệu của bệnh. Nguyên nhân và những điều kiện nhất định gây nên một bệnh gọi chung là các yếu tố bệnh nguyên.
Trong những hoàn cảnh nhất định, nguyên nhân có thể trở thành điều kiện
Trong hoàn cảnh này, yếu tố bệnh nguyên này đóng vai trò nguyên nhân nhưng trong hoàn cảnh khác cũng chính nó lại đóng vai trò điều kiện. Ví dụ ăn uống kém chất bổ dưỡng, thiếu vệ sinh là nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng nhưng lại là điều kiện làm dễ cho các bệnh nhiễm khuẩn xảy ra.
Quy luật nhân quả trong bệnh nguyên học
Mỗi hậu quả đều có nguyên nhân và nguyên nhân có trước hậu quả
Nếu xem bệnh là hậu quả thì phải có nguyên nhân nhất định nào đó tác động và nguyên nhân ấy đã tác động trước khi bệnh xảy ra. Quan niệm nầy có ý nghĩa quyết định luận trong bệnh lý học.
Mặc dù trong y học hiện còn rất nhiều bệnh chưa rõ nguyên nhân, nhưng điều đó không có nghĩa là do những bệnh ấy không có nguyên nhân mà do trình độ khoa học chưa cho phép tìm ra nguyên nhân. Khoa học phát triển không ngừng, mỗi ngày cái chưa biết phải lùi dần nhường chổ cho cái đã biết. Tin tưởng vào quyết định luận khoa học sẽ làm tăng tính tích cực nghiên cứu về nguyên nhân và các điều kiện gây bệnh, tránh được quan niệm duy tâm thần bí về bệnh.
Có nguyên nhân nhưng không nhất thiết có hậu quả nếu như không có điều kiện
Do tính chất phức tạp của hiện tượng sống, phản ứng tính của sinh vật phụ thuộc vào nhiều điều kiện (yếu tố gây bệnh thường là bên ngoài nên muôn hình muôn vẻ và yếu tố điều kiện thường là ở bên trong nên cực kỳ phức tạp) do vậy phản ứng tính thay đổi tùy theo từng cá thể mà ta thường gọi là yếu tố cơ địa. Vậy quy luật nhân quả đơn thuần không hoàn toàn đúng trong y học.
Cùng một nguyên nhân có thể có những hậu quả khác nhau tùy điều kiện cụ thể
Cùng một loại vi khuẩn nhưng tùy nơi tác dụng và tùy thuộc đáp ứng cơ thể mà hậu quả là bệnh cảnh có thể khác nhau. Người làm công tác phòng chống bệnh phải vận dụng sự hiểu biết của mình để từ những hậu quả khác biệt nhau đó tìm thấy được nguyên nhân hay nói cách khác phân biệt được hiện tượng (hậu quả) với bản chất (nguyên nhân)
Một hậu quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra
Viêm, sốt là những quá trình bệnh lý điển hình nhưng lại do rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Đây chính là khó khăn của người thầy thuốc trong việc chẩn đoán bệnh. Cần phải tìm hiểu vai trò của nguyên nhân và hậu quả trong những điều kiện cụ thể vật chất và tinh thần của người bệnh đặc biệt là những điều kiện xã hội vì không thể tách rời môi trường mà trong đó sự kiện xảy ra.
Như vậy, khái niệm về bệnh nguyên học phải có tính chất toàn diện, nó nhìn nhận cả vai trò của nguyên nhân, điều kiện, thể tạng song mỗi yếu tố có tầm quan trọng và vị trí nhất định trong quá trình gây bệnh.
Ngăn ngừa nguyên nhân, hạn chế tác dụng của điều kiện, tăng cường hoạt động tốt của thể tạng là toàn bộ sự tích cực của công tác điều trị và dự phòng.